Hôm nay,  

Trần Hoài Thư, những câu thơ cuộc đời

12/04/202220:06:00(Xem: 3205)

Chân dung văn học

 

Trần Hoài Thư ký sách tặng
Nhà văn Trần Hoài Thư.

 

Trần Hoài Thư tên thật Trần Quí Sách, sinh năm 1942 tại Đà Lạt. Tuổi thơ thất lạc cha, theo mẹ sống khổ cực ở thành phố Nha Trang, có một thời gian sống trong cô nhi viện Hòn Chồng Bethlehem. Sau đoàn tụ với thân phụ mới theo học Quốc Học Huế, đại học Sài Gòn. Từ năm 1964-1966 là giáo sư trường trung học Trần Cao Vân tỉnh Quảng Tín.

 

Năm 1967, nhập ngũ khóa 24 SQTB Thủ Đức. Phục vụ tại đại đội 405 Thám kích sư đoàn 22 bộ binh trong 4 năm. Sau đó về làm phóng viên chiến trường ở vùng IV trong 2 năm. Ông đã từng bị thương 3 lần.

 

Năm 1980, ông sang đến Mỹ, đi học trở lại, tốt nghiệp Cử Nhân Điện Toán và Cao Học Toán Ứng Dung. Ông được nhận vào làm cho công ty AT&T và sau đó chuyển sang làm cho công ty điện toán IBM. Chức vụ cuối cùng trước khi nghỉ hưu là Project Leader.

 

Khởi sự viết văn từ năm 1964. Truyện ngắn đầu tay “Nước Mắt Tuổi Thơ” đăng trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn. Ngoài Bách Khoa, còn cộng tác với Văn, Văn Học, Đời, Bộ Binh, Thời Tập, Vấn Đề, Khởi Hành, Ý Thức…

 

Sau khi nghỉ hưu vào năm 2004, ông cùng Phạm Văn Nhàn sáng lập tạp chí Thư Quán Bản Thảo và nhà xuất bản Thư Ấn Quán. Cho đến nay, phần lớn các tạp chí văn học dạng báo giấy ở Mỹ đã đóng cửa nhưng Thư Quán Bản Thảo vẫn tồn tại và đã phát hành đến số 75. Tủ sách DI SẢN VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM của nhà xuất bản Thư Ấn Quán đã sưu tầm và in lại hàng trăm tác phẩm giá trị, đáng kể nhất là bộ THƠ MIỀN NAM gồm 5 tập với tổng cộng khoảng 3500 trang và bộ VĂN MIỀN NAM 4 tập với tổng cộng khoảng 2400 trang.” (Theo Trang thơ báo NV).

 

Trần Hoài Thư được biết đến ở miền Nam trước 1975 là một nhà văn, dù ông cũng có làm thơ, song chỉ in báo các tác phẩm văn xuôi, thế nhưng những người yêu văn của ông, vẫn thỉnh thoảng được đọc những bài thơ rải rác của ông do bạn bè giới thiệu, mãi đến sau này, qua tập tuyển thơ “Ô cửa” của ông in ở hải ngoại, đặc biệt là tập thơ “Vịn vào lục bát” (Thư Quán bản thảo in năm 2017), người hâm mộ mới có dịp “thấu cảm” hết những vần thơ Trần Hoài Thư viết, thể hiện như chính cuộc đời ông, luôn vượt qua những khó khăn của cảnh ngộ để đạt được những đam mê cháy bỏng của mình, đó là viết, và sưu tầm những áng văn chương một thời của miền Nam và được bạn bè, bạn đọc, đặt cho cái tên là “Người ngồi khâu di sản văn học miền Nam”, và chính ông cũng đã viết mấy câu thơ tự trào “ Lão ngồi khâu di sản/ Kim đâm mà không hay...”

 

Từ một thầy giáo dạy Toán ở trung học, Trần Hoài thư đã có những bài thơ ấn tượng: “Ngôi trường cũ có bao nhiêu ô cửa/ Để tôi về đếm những đám mây/ Tôi sẽ gọi một bầy chim sẻ nhỏ/ Những con chim từ xa vắng lạc bầy”. Và hình ảnh người thầy giáo qua “ Ô cửa” hoài niệm ấy, sẽ già theo năm tháng, khi mà đất nước còn chiến tranh, xa cách: “Tôi sẽ đứng như một người thiên cổ/ Lớp học buồn , như từ cõi cô đơn/ Thầy ngồi đó, đôi vai gầy tóc bạc/ Chút ngậm ngùi, cơn nắng đọng hòang hôn” ( Ô cửa) tâm trạng ấy và cuộc đời của người thầy giáo mới ngoài 20 tuổi ấy, đã rẽ sang một trang đời khác, đó là chàng Chuẩn úy trẻ măng, nắm giữ Trung đội trưởng Thám kích, lằn ranh sinh, tử, khiến những vần thơ hoài niệm trước trở thành ngang tàng, khí phách, trong bài thơ “ Một ngày không hành quân”, đó là: “Xin cô hàng thêm một két bia/ Hôm nay lãnh lương tôi dành đãi hết/ Cô hàng ơi, một mai tôi chết/ Ai tiêu dùm, ba tháng tiền lương”. Không ai có thể tiêu dùm cho nhà thơ, khi mà: “Hôm qua tôi dừng chợ Bồng Sơn/ Mẹ thằng bạn ôm tôi mà khóc/ Tôi nói làm sao qua dòng nước mắt/ Thị trấn này vừa mất thằng con.../ Tôi quá buồn ra đứng bờ sông/ Sông Lại Giang ráng chiều đỏ sậm/ Nhớ nó ngã nhào trên bờ đá xám/ Thấy cả ngọn đồi những xác Bắc Nam”. Đó cũng là thực tế của cuộc sống gian khổ lúc bấy giờ, cho nên nhà thơ phải: “Cô hàng ơi cho một ly không/ Tôi rót mời một người lính Bắc/ Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật/ Trên người vẫn còn sót lại bài thơ” Sự khẳng khái, ngang tàng, song vẫn: “Khi tôi buồn tôi nói trăm năm/ Có nghĩa là tôi vẫn còn muốn sống/ Đừng nhắc cùng tôi người tôi yêu dấu/ Kẻo tôi lại sầu, mửa hết mật xanh”, vâng, “vẫn còn muốn sống”, là sự khao khát, sự thú nhận rất chính đáng và cũng thật đáng yêu và trân trọng!

 

Chàng sĩ quan trẻ thuở ấy, vẫn khát khao viết, khát khao văn chương, cùng những truyện ngắn đăng trên các báo văn chương, danh giá thời bấy giờ, là tấm “thông hành” để một vị Tướng cảm thông cho chàng mà rút về làm phóng viên chiến trường... tận miền Tây sông nước, thủ phủ của “Cần Thơ gạo trắng, nước trong”. Ở đây, nhà thơ đã gặp mối tình nồng thắm nhưng cũng hết sức lãng mạn, đầy chất lính. Những vần thơ của Trần Hoài Thư, trong đoạn văn “Hành phương Nam” thật nhẹ nhàng và cũng đầy lãng mạn: “Qua sông mùa mận chín/ Tháng nắng ngại đường xa/ Em ra vườn sau nhà/ Hái mời anh chùm mận/ Bông mận rơi lấm tấm/ Da mận hồng như môi/Ôi con mắt có đuôi/Má hồng đào ửng đỏ/ Si em người em nhỏ/ Ta ở mãi quên về/ Trái mận nào dậy thì/ Ta giữ hoài không cắn…”. Phải chăng đó cũng chính là nàng thơ, người vợ tấm mẵn của Trần thi sĩ, mãi đến tận hôm nay, khi cơn strocke, đã khiến nàng trở thành “người thực vật”, không còn nhận biết những người chung quanh, nhưng thi sĩ vẫn dành cho nàng những vần thơ của một người chồng biết thương yêu vợ: “ Theo người, theo cả trăm năm/ Theo người, muối sát bầm sưng nỗi buồn/ Theo người, cha con mỗi tuần/ Con ôm lấy mẹ, cha cầm bàn tay...” ( Theo người). Và những hoài niệm bên nhau: “ Em khuyên tôi mỗi ngày hãy chọn niềm vui/ Nhưng tôi không có niềm vui nào làm sao để chọn/ Cũng muốn lắm, nhưng bầu trời quá nặng/ Không chừa một khoảng nào dưỡng khí bình yên...” ( Mùa Xuân 2). Thật ra, niềm vui chủ yếu của nhà thơ, chính là... ngồi dưới Basement của căn nhà để...khâu lại những di sản của văn chương miền Nam, ông tỉ mẩn, đọc, chọn ra những trang viết trên các sách báo thời bấy giờ, để tập hợp lại, ngổi gõ bàn phím vi tính, trình bày bài, rồi in ấn và đóng gáy thành những quyển sách đồ sộ, dày hàng ngàn trang, bìa cứng công phu, để lưu giữ những trang viết tri kỷ, tri âm mà ông tuyển chọn. Người viết bài cũng được cái may mắn, khi ông tuyển chọn đến 5 bài thơ đăng trên Văn Học, Thời Tập và Đông Phương thuở ấy để in trong tập “ Một thời lục bát miền Nam” ( Thư Ấn quán XB 2016) như một cái duyên tri ngộ bây giờ.

 

Những năm sau 1975, cuộc sống tù đày, vất vả, biến ông trở thành người bán cà rem dạo, ngày xuống tàu, tìm đến chân trời tự do, Trần Hoài Thư đã có bài thơ với nhiều cảm xúc đặc biệt: “Lăn chiếc phuy dầu lên tàu cá lớn/ Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam/ Việt Nam. Đêm ấy đêm trừ tịch/ Có những con người lại cách ngăn”. Ông “chào tất cả những con đường thân, đường quen... và cả những ai lầm lũi trong đêm lạnh về nhà”, vì bởi ông biết: “Vẫn biết lần đi là bỏ hết/ Là phủi tay. Cháy túi. Sạch trơn/ Quay nhìn lại: Em còn bóng nhỏ/ Ngọn đèn vàng lạnh một dòng sông...”. có lẽ đó là những cảm nhận và ấn tượng mà ông suốt đời khó có thể quên: “Trong khoang chật, nghe chừng nín thở/ Anh hùng đâu. Một nỗi lặng thinh/ Gió trừ tịch hú dài Bãi Giá/ Đập mạn thuyền, sóng vỗ buồn tênh”. Đó chính là “Đêm từ giã Việt Nam”, mà những người đồng cảnh ngộ, khi đọc bài thơ không thể nào không nhớ: “Là lúc, thấy mình như bất hạnh/ Sắp làm người không có quê hương”. Có lẽ sẽ không gì buồn, ngậm ngùi hơn...

 

Giỏi vi tính, là kỹ sư công nghệ thông tin, Trần Hoài Thư chủ trương trang Web Thư quán bản thảo, rồi Blog THT, đăng tải những sáng tác của thân hữu bạn bè và của ông, bên cạnh việc in sách, báo phát hành trong giới văn nghệ, mới đây, khi chính bản thân ông cũng bị stroke ở lứa tuổi gần 80, phải ngồi xe lăn và chống gậy, nhưng khi đã dần hồi phục, ông lại bắt đầu chơi facebook, với trang facebook Trần Hoài Thư, mà trên nền Avatar, ông đưa lên hình ảnh ông ngồi ghế, chống gậy, đối diện với vợ ông đang ngồi trên xe lăn...bất động, và viết những câu thơ... xa xót lòng người, song cũng đầy sự lạc quan, ý vị: “Và lại mùa thu . Lá bướm bay/ Tôi và em lại đến chốn này/ Tôi đẩy xe, em ngồi, pho tượng/ Nhưng tôi nghe hơi ấm tỏa đầy/ Tôi đẩy xe, hay tôi đẩy tôi/ Mỗi tuần, và chỉ một giờ thôi/ Chân tôi bước, quên mình bị strocke/ Những bước vui, và vững tựa đồng...”.

 

Theo khai sinh, thì tháng 12 năm nay, ông tròn 80 tuổi, lứa tuổi mà dân gian... gọi là “kim cương”. Cầu mong nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư luôn “Vững tựa đồng” và “bất hoại” bên những sáng tác của mình và những di sản văn chương mà ông đã bỏ công suốt cuộc đời để khâu đóng lại...

 

Trần Hoàng Vy

(3/2022)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mạ xếp hạng chuyện học hành của con cái là quan trọng hàng đầu. Với tiệm sách và quán cà phê, Mạ đã quán xuyến, lo cho gia đình có cuộc sống sung túc, thoải mái một thời gian dài...
Nghe tin chú Nghĩa sắp cưới vợ, bà con trong khu phố xôn xao nửa tin nửa ngờ. Chuyện lập gia đình ai trưởng thành chả thế! Ấy vậy mà với chú Nghĩa thì chuyện này hơi lạ. Đến khi chú đem thiệp đi mời hẳn hoi vậy chắc chắn là sự thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa!
Từ ngày về hưu non, hai vợ chồng tôi cứ lục lọi hết website này đến website khác để tìm nơi đẹp đi du lịch; sợ rằng sự hào hứng của tuổi trẻ sẽ không còn nữa, nên phải đi hết những chỗ mình ao ước từ hồi nhỏ đã đọc sách mà không có thì giờ và phương tiện để thực hiện...
Cơn mưa nhỏ lướt qua bầu trời từ bình minh cũng đã chấm dứt; một tia nắng vàng lách qua lùm cây sồi chui vào góc chuồng cừu lớn. Những chú cừu đực ngập trong rơm rạ của máng ăn buổi sáng vừa ngẩng đầu về phía tia nắng và kêu be be...
Bây giờ, việc đi về giữa Mỹ và Việt Nam thật dễ dàng. Nhưng vào thập niên 80, 90 người đi kẻ ở tưởng chừng là biệt ly mãi mãi. Bạn đã nói với tôi như thế trong nước mắt. Và với sự ngăn cấm của gia đình, với tuổi trẻ khờ dại nông nổi, họ đã lạc mất nhau. Để rồi suốt phần đời còn lại, nỗi đau vẫn còn là vết thương rưng rức. Tôi xin ghi lại câu chuyện tình của bạn, như là một lời đồng cảm...
Ngạn rời căn nhà đó và xuống đây theo đơn xin đi làm trong hảng thịt bò. Ngày Ngạn đi cũng buồn tẻ ảm đạm như ngày anh rời đất nước. Người vợ và hai đứa con tiễn anh ở bến xe buýt ''Con chó rừng''...
Chiếc ghe vượt biển nhỏ xíu, mỏng mảnh của chúng tôi vậy mà chất lúc nhúc đến hơn 80 thuyền nhân, chẳng khác nào một cái lá lạc loài trên đại dương mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Đoàn người rời bỏ quê hương tụm năm tụm ba, rải rác khắp thuyền, co ro trong cái lạnh ngoài khơi xa tít tắp, đầu óc hoang mang với trăm ngàn ý nghĩ...
Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui...
Người ta nói: “Hết quan là hoàn dân” và chỉ mong có vậy, đừng hết quan hoàn…tàn phế” thì buồn quá! Hôm nay lão Dụng đã tự ngồi dậy được. Lão không nhớ là mình đã nằm như khúc gỗ mục, bất động bao lâu rồi! “Mới đó mà đã lại sang một năm mới. Thời gian bây giờ có nghĩa gì đâu chứ!”: Lão lẩm nhẩm một mình!...
Trong một căn phòng motel nhỏ sạch sẽ gọn gàng chăn ga gối trắng, trên giường phủ một tấm trải lớn có thể dùng làm chăn đắp màu lông chuột, một người phụ nữ nằm khóc, và người đàn ông đang ra sức dỗ dành. Cô gái mếu máo “Anh à, anh X đã bỏ đi rồi!”...
Những ngày cuối tháng tư quân trường Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung vẫn đang cắm trại, chồng tôi chưa về, nhưng trước khi đi anh đã bảo tôi ở nhà có gì thì bám theo cha mẹ và các em để đùm bọc lẫn nhau. Gia đình cha mẹ tôi ở gần nên hai nhà như một...
Tôi bồn chồn liếc mắt nhìn đồng hồ, rồi lại nhìn chừng về phía hội trường đầy ấp hơi người và ồn ào tiếng cười nói. Đã hơn tám giờ mà chương trình vẫn chưa bắt đầu. Chưa bao giờ tôi thấy khó chịu về chuyện giờ giấc như lúc nầy. Thấp thoáng trong đám đông, tôi thấy Khánh đang chạy đôn đáo chừng như kiểm điểm sự có mặt của một số khách “nồng cốt”, để bắt đầu chương trình...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.