Hôm nay,  

Vụn Vặt Chuyện Xưa

23/10/202111:20:00(Xem: 2138)

 


 Thuở sinh thời, ngoại tôi thường nhắc nhở con cháu:

“Những loại giấy có chữ, nếu không dùng thì đốt đi, không được vất bỏ bừa bãi kẻo người ta đạp lên chữ nghĩa thánh hiền, nếu mà đạp lên chữ nghĩa thì đời sau sanh ra sẽ ngu dốt không biết chữ.”

 Ngoại tôi tuy chữ nghĩa không bao nhiêu, đủ để biết đọc, biết viết sơ khai nhưng khả năng nhớ và tính nhẩm thì siêu đẳng. Thời Pháp thuộc ngoại đã ra bắc vào nam buôn bán. Thời quốc gia thì làm ăn phát đạt và giàu có nhất vùng, vốn liếng tài sản nhiều nhưng chẳng bao giờ nghe thấy tính lộn hay tính sai bao giờ. Ngoại tính nhẩm mà chính xác và nhanh như điện. Bọn con cháu có học hành, có bằng cấp, tính bằng giấy bút, bằng máy tính nhưng vẫn cứ sai sót như thường. Có không ít lần con cháu tính hóa đơn xong, ngoại nhẩm lại là thấy sai. Con cháu cãi ngoại: “Máy tính điện tử sao sai được?”, ngoại khăng khăng:  “Tính lại đi”, quả thật tính lại thì thấy sai. 

 Ngoại không có học hành nhiều, chỉ qua những lớp bình dân học vụ thời Pháp thuộc nhưng trong đầu là cả một kho tàng ca dao, tục ngữ và cả những câu nói chữ nho. Tôi lớn lên thuộc  nhiều ca dao và yêu thích văn chương có lẽ nhờ nghe ngoại hát ru thời thơ ấu. Tôi tính toán rất dở, rất vụng, tính tới tính lui sai hoài nhưng được cái ghi nhớ tốt, có lẽ hưởng cái gene của ngoại. Có những câu ca dao, bài hát ru, câu chữ nho… nghe từ hồi còn bé vậy mà đến giờ vẫn nhớ như in. Có những chi tiết nhỏ nhiệm hầu như người nhà chẳng ai nhớ nhưng tôi còn nhớ rõ mồm một, khi nói ra thì mọi người ngớ người ra. Có lần ngoại kể chuyện:

“Xưa có ông tăng đi khất thực qua làng, buổi trưa tròn bóng, ông ngồi dưới gốc cây me đầu làng để thọ thực và nghỉ trưa. Một thằng bé trong làng đang hái me trên cây, nó nghịch ngợm từ trên cao tè xuống trúng đầu ông tăng. Ông tăng quá từ bi, không giận, không thấy phiền, chỉ kêu thằng bé xuống và còn cho nó cái bánh. Ít lâu sau có một ông quan lớn ở triều đình về thăm làng, Ông để lính tráng quân hầu ở ngoài xa, một mình đi vào làng và ông cũng vô tình  ngồi dưới gốc me đầu làng để hóng gió. Cũng thằng bé hôm nọ, nó được thể leo lên cây me và tè xuống đầu ông quan. Ông quan giận dữ kêu nó xuống và đập thằng bé chết tại chỗ.”

Câu chuyện ngụ ý: “Từ bi phải có trí huệ, từ bi mà thiếu trí huệ thì cái quả nhiều khi không thành thậm chí có hậu quả ngược”. Ngoại kể xong chuyện còn giải thích:

“Giá mà ông tăng hôm ấy kêu thằng bé xuống, phạt đòn ít roi thì có lẽ đã cứu được mạng nó. Ông tăng từ bi, chẳng những không phạt mà còn cho nó cái bánh, nó quen mùi, những tưởng ai cũng như ông tăng và nó tiếp tục để rồi phải chết vì ông quan.”

 Ý ngoại còn nhắn nhủ: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Con trẻ dù có ngoan cỡ nào cũng cần phải uốn nắn dạy dỗ. Con trẻ mà không dạy dỗ thì nó không phân biệt được phải trái, đúng sai; mai kia lớn lên sẽ cong vạy. Ngoại kể chuyện xong còn ngâm nga:

“Sanh con chẳng dạy chẳng răn

   Thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng”

 Ngoại là một Phật tử thuần thành chơn chất, cũng như bao  nhiêu Phật tử dưới quê. Ngoại tin Phật, tu Phật bằng tín tâm. Ngoại và bao người khác đâu biết gì “Tứ diệu đế, bát chánh đạo, tứ niệm xứ, thất bồ đề phần...”, rồi những thuật ngữ như: “Bồ đề, bát nhã, tánh không, Phật tánh...” lại càng xa lạ, những giáo lý hay những bộ kinh thậm thâm càng không biết. Ngoại chỉ một lòng trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, niệm chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm. Lúc mua bán thì tạm gác lại nhưng hễ rảnh ra thì niệm Phật.  Ngoại lên chùa mồng một và ngày rằm. Ngoại cũng cúng cô hồn các bác vào mỗi tháng nhưng tuyệt đối cúng chay, không cho phép sát hại sanh vật hay dâng cúng đồ mặn (theo thói thường thì người ta cúng cô hồn các bác phải có heo quay, gà, vịt hoặc tam sênh…). Con cháu ngoại sau này có học hành đàng hoàng, có hiểu biết giáo lý nhưng lại thua ngoại ở chỗ thực hành! 

 Ba vốn là người cùng quê với ngoại, rời quê xuống trấn trọ học. Ba nho nhã thanh tú, chữ viết đẹp như rồng bay phụng múa, lại biết hát và đánh đàn guitar. Má là con gái lớn của ngoại, thế rồi hai người ưng ý, ngoại gả luôn cho ba. Ba làm rể ở nhà ngoại, chịu ảnh hưởng ngoại và từ ông ngoại kế. Ông ngoại kế là một cư sĩ thuần thành, giỏi chữ nho. Ông thường dịch kinh và đánh máy trên loại giấy pơ luya (ngày nay không còn thấy loại giấy này nữa). Ông ngoại còn vẽ minh họa hình Phật, Bồ tát…bằng mực tàu, Sau đó đóng gáy bằng chỉ may. Kinh sách tự làm đem tặng cho những Phật tử đồng niên hay các chùa khác. Ông ngoại kế cũng là bạn đồng niên với đức đệ tứ tăng thống, những năm ngài còn ở Nguyên Thiều thì ông thường đạp xe ra tháp đảnh lễ ngài. Ba chịu ảnh hưởng lớn từ ông ngoại kế và học Phật từ đó. Thời quốc gia, ba có đi quân dịch một thời gian, trại đóng gần đỉnh đồi có pho tượng kim thân Phật tổ ở Nha Trang. Những kỷ vật mà gia đình còn giữ được sau những biến động của quốc gia là một tấm ảnh cha mặc quân phục đứng chiêm ngưỡng tượng đức bổn sư.



 Tịnh độ thâm nhập sâu và lâu đời rồi, Phật tử Việt hầu như chỉ biết có Phật A Di Đà (Trừ những Phật tử phương nam chịu ảnh hưởng Phật giáo nam tông). Ngoại cũng như mọi Phật tử dưới quê, rất chí thành niệm Phật, làm lành, làm phước, ăn chay, đi chùa… và hy vọng khi chết được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Hầu hết mọi đám tang của Phật tử Việt đều theo nghi thức tụng niệm Kinh A Di Đà, cầu và chúc vãng sanh Cực Lạc. Liễn, trướng, đối, vòng hoa… cũng ghi cầu “Vãng sanh Cực lạc,” “Vãng sanh tịnh Độ”... Ngoại hay rầy la con cháu mỗi khi thấy phung phí ăn đổ vãi cơm gạo hoặc thức ăn. Ngoại thường nói:” Bỏ thừa mứa thức ăn, cơm gạo rơi vãi không nhặt lên thì kiếp sau đói khổ, hổng có mà ăn”. 

 Ngoại là người đàn bà tháo vát, năng động và mạnh mẽ, hoạt động không ngừng nghỉ, có lẽ nhờ vậy mà sức khỏe dẻo dai, ít bệnh tật. Cả đời ngoại không biết bác sĩ hay nhà thương là gì, những khi cảm mạo trái gió trở trời hay đau bụng, nhức mỏi thì đến ông lang vườn, hoặc đến mấy tiệm thuốc bắc hốt vài thang thuốc về sắc uống thế thôi. Ngoại thích thuốc bắc, trấn nhỏ có ba tiệm thuốc bắc: Thái Xuân Đường, Lợi sanh Đường và Tân Lợi Đường Ngoại hạp với Tân Lợi đường nhất. Khi mà cảm thấy không khỏe là đến đấy để ông già Tàu bắt mạch và hốt cho vài thang thuốc. Ngoại triết lý: “Nghề y dễ làm giàu nhưng cũng dễ thất đức, con bệnh có biết gì đâu, muốn chẩn thế nào cũng được, muốn bán loại thuốc gì cũng xong, mua ký bán chỉ, đã thế nhiều ông lang còn nuôi bệnh không chữa dứt, để con bệnh còn quay lại...” Giờ nghĩ lại thấy lời ngoại vậy mà chính xác, nhiều ông lang ta, lang tây nuôi con bệnh để trục lợi một cái ác ngầm đáng sợ! 

 Nhà cũng có con cháu thường uống rượu, ngoại la rầy hoài. Người uống rượu cũng hứa hoài nhưng không bỏ được, bỏ rồi lại uống bao nhiêu bận vẫn không xong. Ngoại khi không lại kể chuyện chơi, không biết là ngoại nghe từ đâu hay là tự diễn ra:

“Xưa có người uống rượu, ngày nào cũng say lè nhè, hàng xóm cười chê, bản thân người ấy cũng biết say sưa là không tốt, tuy nhiên bỏ rượu không phải dễ. Một ngày kia anh ta say túy lúy và bị một con quỷ chặn đường đòi ăn thịt. Anh ta van xin thì nó ra ba điều kiện: “Mầy phải uống hết hũ rượu này hoặc là đốt nhà, điều thứ ba là giết mẹ”. Anh say rượu ngẫm nghĩ: “Đốt nhà thì ở chỗ nào? Giết mẹ thì bất hiếu, chỉ có điều thứ nhất uống rượu là quá dễ”, nghĩ thế và anh ta chọn uống hết hũ rượu. Sau khi uống hết hũ rượu và lảo đảo đi về nhà. Bà mẹ thấy thế càm ràm la mắng, anh say rượu mất hết lý trí phừng phừng nổi giận lập tức nổi lửa đốt nhà và giết chết người mẹ của mình.”

 Câu chuyện ngụ ý một khi mình đã mất lý trí thì tội ác nào cũng dám làm, giới cấm nào cũng phạm và rượu là một nguyên nhân chính làm mê mờ lý trí. Ngoại còn khuyên răn: “Uống rượu nhiều thì kiếp sau sẽ làm con dòi trong hũ hèm”… 

 Ngoại là con gái thầy hương cả, em ông bá hộ Thì, tuy ngoại không đẹp  nhưng cứng cát và tháo vát. Ngoại là bạn đồng niên, đồng môn với ông Xã Thạnh, ông Phó Bộ Di, ông võ sư Hà Trọng Sơn mà người đời thường xưng tụng là “Con hùm xám miền trung”. Ngôi nhà của ngoại ở quê sát bên từ đường của thầy hương cả chỉ để thờ cúng. Ngoại mua nhà trong thị trấn để sinh sống mua bán làm ăn. Ngôi nhà ở quê cũng là nơi ngoại chôn giấu vàng và những món tài sản quý. Ngôi nhà yên ả với đường làng rợp mát bóng tre. Những ngày còn nhỏ, tôi thường theo ngoại về ngôi nhà ấy để ngủ, ngoại về ngủ cũng để trông chừng của cải chôn giấu (sau này lớn lên tôi mới biết được bí mật này). Cái tĩnh mịch của đêm trường ở vùng quê đến vô cùng, đầu hôm còn có tiếng dế, tiếng côn trùng nỉ non, càng về khuya thì sự tịch mịch như sâu lắng không biết dường nào. Những đêm trăng, trăng rơi lấp loáng khoảng sân cát giữa nhà. Ngoại nằm võng kẽo kẹt hò:

… Ví dầu bậu có muốn thôi

     Bậu gieo tiếng dữ để rồi bậu ra

     Bậu ra cho khỏi tay qua

     Cái xương bậu nát cái da bậu mòn… 

Thế rồi ngoại thiếp đi trong giấc mơ, mờ sáng thì ngoại dậy thỉnh chuông khấn nguyện:

“Cầu trời khấn Phật, Cầu chư vị bồ tát, thiện thần, long thiên bát bộ gia hộ cho con cháu mạnh giỏi, học hành tấn tới, tật bệnh tiêu trừ, gia đạo bình an, thiện lành ở lại, nghịch dữ bỏ đi, đức Phật từ bi, rủ lòng gia hộ… Nam mô A Di Đà Phật.”

 Tiếng chuông boong boong boong loãng vào không gian, mang lời khấn nguyện bay cao, bay xa, bay vượt thời gian và bay vào tâm khảm con người.

TIỂU LỤC THẦN PHONG 

Ất Lăng thành, 10/21

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trời Nam Cali vẫn còn mang hơi lạnh của những cơn mưa cuối mùa, dù gió xuân đã nhuốm hơi ấm khắp chốn. Nhìn những cành khô của đông còn sót lại, đã e ấp đâm chồi xanh, rồi sẽ rộ nở hoa. Xuân đến, đông đi rồi trở lại, đất trời cũng luôn đổi thay, vạn vật vốn dĩ vô thường, nhân sinh cũng tất bật bôn ba không ngừng nghỉ...
Chị không còn đủ sức để có thể có bất kì một phản ứng nào, ngoài việc vịn theo vách tường lần sang phòng con, ngả người xuống và rơi vào trạng thái chập chờn giữa tỉnh và mê, giữa thức và ngủ, đầy mộng mị nặng nề. Đầu chị nhức nhối. Chị muốn dậy đi tìm viên thuốc nhưng không thể nào trở mình được. Thân thể chị tê cứng. Cổ họng khô rát. Lát sau, chị thấy rõ ràng mình ngồi dậy, đi ra ngoài lấy ly nước. Chiếc ly chỉ cách bàn tay chị chừng vài phân. Chị nhoài người tới. Kỳ lạ thay, chiếc ly như đùa cợt với chị, nó cứ lùi dần ra phía sau và luôn giữ khoảng cách cũ. Rồi trong tiềm thức, chị bỗng nhận biết được đây chỉ là giấc mơ! Chị cố vùng vẫy, cố thoát khỏi giấc ngủ chết chóc. Nhưng tất cả đều vô ích! Chị mệt lả, kiệt sức...
Chỉ vào những giờ phút trang nghiêm như giao thừa gia đình nhỏ của tôi mới tận hưởng hạnh phúc sum vầy bên nhau...
Trên đường lái xe từ Corpus Christi đến thành phố Houston, để “đốt” thời gian dài buồn chán trên xe, chúng tôi kể cho nhau nghe vài kỷ niệm ngày xưa, trong đó phải kể đến một thời tuổi trẻ đã từng lê lết trong những rạp “chớp bóng” ở Sài Gòn ngày nào. Hào hứng nhất vẫn là nhắc lại những phim “cao bồi” nổi tiếng...
Tháng mười hai ở xứ này cũng giống tháp chạp ở xứ mình, tháng này vào mùa lễ, mùa hưởng thụ, nghỉ ngơi, thăm viếng, sum họp… Mùa lễ bắt đầu từ lễ Tạ Ơn kéo dài cho đến tết tây, nhà cửa, phố xá trang hoàng đèn hoa rực rỡ. Người người tấp nập mua sắm, đi chơi. Nhà nhà sum họp, gặp mặt, tiệc tùng…
Năm nào cũng vậy, nơi mình ở, cứ đến những ngày cận Tết cho mãi đến sau Tết, thời tiết lạnh giá vẫn chưa chịu ra đi khiến không khí xuân thiếu phần khởi sắc như trong những bài văn, bài thơ, bài hát qua những lời ca tụng mùa xuân nắng ấm chan hòa, hoa màu muôn sắc và người người đang hớn hở đón mừng xuân. Không biết có phải mình đã luống cái tuổi xuân từ lâu nên nhìn sự vật chung quanh có phần ảm đạm hay không? Chắc là vậy...
Hãy chọn một nơi yên tĩnh sống cho mình. Tôi không khuyên mọi người đi tu, vì đi tu cũng là cái duyên, có duyên mới đi tu được...
Giữa đêm khuya, một hồi chuông réo lên inh ỏi, phang thẳng vào hộp sọ. Như một cú đấm bất ngờ. Tôi bật dậy, đầu óc mụ mị, tôi không biết mình đang ở đâu, không biết có chuyện gì xảy ra. Đến lúc lờ mờ hiểu rằng đó là cái điện thoại cổ lỗ đang rống, tôi quờ tay sờ soạng tìm ống nói.
Bà nhẹ nhàng túm cổ một đứa. Vòng sợi dây quanh cổ nó. Nới một vòng tròn đủ để đầu nó không tuột ra ra nhưng cũng không siết quá chặt, để nó còn thở được. Rồi bà buộc thắt nút lại. Con mèo con bị buộc dây quanh cổ, lúc đầu loay hoay tìm cách gỡ, nhưng chỉ một lúc sau đã quên, lại tiếp tục vờn bắt con kia. Bà nhoài người túm con thứ nhì. Tuốt sợi dây luộc, luồn quanh cổ nó. Đo đại khái cái vòng dây không quá lỏng để khỏi tuột qua đầu và không quá chật để không làm con mèo nghẹt thở. Xong, bà buộc hai đầu dây lại với nhau. “Đứng yên xem nào. Hai đứa bay làm gì mà đùa giỡn không biết mệt. Đói rã họng ra mà vẫn cứ nhởn nhơ.” Bà mắng mỏ hai đứa nó. Hệt như ngày trước mắng mỏ hai đứa con. Khi hai anh em chúng nó còn bé tí, chả biết thế nào là lo âu; khi người mẹ đơn thân một mình chống chọi với cuộc đời, để cố nuôi cho hai đứa con dại lên người.
Miền sông Hương thơ mộng là cội nguồn của tôi với Hương Trà, Tiên Nộn, quê của Ba và Me tôi lại là nơi ấp ủ thời Vàng Son yêu quý của tôi, sau thời gian tuổi thơ đầy hạnh phúc bên cha mẹ anh em ở cái thành phố miền cao nguyên trữ tình ấy...
Chúa Tiên là tên tục của Ngọc Hân công chúa, con gái vua Lê Hiển Tông, đời Lê Trung Hưng. Chúa Tiên xinh đẹp, mặt mày sáng như trăng rằm, mình hạc vóc mai, tính nết dịu dàng, yêu cha, yêu mẹ, yêu hết thẩy anh chị em, lại văn hay chữ tốt...
Không khí Tết đã rộn ràng cả xóm. Nắng nhẹ nhẹ, gió mơn man và nhạc xuân lan tràn từ radio mọi nhà mọi ngõ. Nhà nhà đều sửa soạn đón xuân về.