Hôm nay,  

Nắng Rút Chiều Thu

12/1/202021:11:00(View: 3881)

Đàn Xưa, Sách Cũ

Giữa tháng Mười, 2020. Hay tin Nhà sách-nhạc Tú Quỳnh đóng cửa, tôi buồn. Ở cái thời COVID-19 này, có bao nhiêu điều vui? Tuần trước, Ba Mẹ qua chơi với em út, Mẹ nói cháu gái muốn tìm thêm sách tiếng Việt. Tôi lật đật chạy vô kệ sách Việt Ngữ của mình, chọn sách ngữ pháp, sách sử, tự điển, và một số tập thơ để Mẹ đem về cho cháu. Đây là sách tham khảo của tôi, nhưng thấy cháu ham học thì tôi hết lòng hỗ trợ. Cô giáo Việt ngữ mà! Nghe ai tìm sách là hoan hỉ giúp liền! Mấy chục năm nay là vậy, quen rồi. Hai hôm sau, tôi gọi cho chị gái, báo tin cuối tuần đó, Tú Quỳnh sẽ mở cửa hai ngày cuối. Tôi hỏi chị có muốn đưa cháu đi coi sách không, nếu không thì tôi đưa. Hỏi cháu thích đi với mẹ hay đi với dì, thì con bé trả lời nước đôi. Thế là tôi một mình biểu quyết: đi với dì. Bữa sau qua thăm Mẹ tôi, cháu gái nói sẽ đi với mẹ, vì mẹ nói để mẹ chở cháu đi, dì khỏi chạy vòng vòng mất công. Tôi mới phải bật mí là, “Trước khi đi tiệm sách, mình sẽ đi xem đàn nữa!” Dì muốn có ‘surprise' cho cháu nên không nói trước, nhưng cùng đường, đành phải bật mí. Hồi hè, con bé ngỏ ý nhờ tôi dạy đàn tranh. Tôi đang hoàn tất một dự án nghiên cứu, nên hẹn với cháu, sau khi xong việc, sẽ bắt đầu dạy đàn tranh cho cháu. Nhưng muốn dạy thì phải có hai cây đàn, nên tôi đã hỏi thăm và xin hẹn, rồi hôm đó đưa cháu đi cùng để cháu chọn cho vừa ý.


Nhớ lại chuyện học đàn tranh, tôi chạnh thương cây đàn thân thiết của mình. Một món quà tinh thần vô giá. Ngày xưa, trong hai năm ở Sài Gòn, tôi có theo học đàn tranh với một chị đang học ở nhạc viện. Chị với tôi học chung lớp Anh Văn tại gia của Thầy Khúc Hữu Chấp, Quận Ba. Tôi nghe nói sau này Thầy Chấp định cư ở Texas. Chuyện đã mấy chục năm rồi, nhưng lớp Anh Văn của Thầy là một kỷ niệm đẹp. Tôi nhớ, chị mang cặp kính thật dày, tóc xoã dài, ít nói, trầm tĩnh, và có nụ cười dè dặt. Sau này thân nhau, chị kể, hồi nhỏ chị bị bệnh, phải nằm nhà một thời gian. Mê đọc sách đến nỗi khi hết bệnh thì phải kè theo cặp kính đến giờ. Chắc tôi lù khù quê mùa nên chị tội nghiệp, và làm quen với tôi. Chị hay đi cùng một chị nữa, cũng học cùng ngành ở nhạc viện. Khi biết hai chị học chuyên đàn tranh, tôi mê liền và tỏ lòng ngưỡng mộ.


Lúc còn ở quê, tôi đã phải lòng tiếng đàn tranh trong một lần thấy nó trên màn ảnh TV nhà hàng xóm. Hồi đó, Ba tôi là ‘nguỵ quân Võ Bị Đà Lạt’ nên bị đi tù cải tạo và nhà tôi bị chính quyền mới ập vô dọn hết đồ đạc từ bàn ghế tủ kệ song nồi xe cộ đến tủ lạnh, tivi. Chỉ còn lại cái sàn nhà đã bị dở gạch bông, trơ đất chỗ lồi chỗ lõm. Chúng tôi chỉ coi tivi “chớp nhoáng” khi đi bộ ngang nhà hàng xóm. Tối đó, tôi đi mua nước mắm ở đầu xóm cho Mẹ nấu canh. Đang đi, thì nghe tiếng đàn lọt ra từ nhà ông Hùng xe đò. Tiếng đàn tranh là cú sét ái tình, tôi mới nghe đã chịu liền. Khi tôi đi tiếp, tuy không còn thấy màn hình, nhưng vẫn nghe tiếng đàn được một đoạn nữa thì mới ‘ra ngoài vùng phụ sóng,’ hết thấy và hết nghe. Ngay lúc đó, tôi nhủ lòng, nếu được học đàn, thì tôi sẽ chọn đàn tranh. Tiếng đàn trong trẻo, nhẹ nhàng, thanh thoát. Nhưng muốn học đàn tranh là chuyện viễn vông! Cả vùng quê tôi không ai có cây đàn này. Thời đó nhà ai nấy ở, chỉ có văn nghệ hành quân đoàn đội, không có trình diễn dân nhạc dân nhiếc gì cả. Mà viễn vông nhất là vì chuyện cơm áo. Thời đó, cơm gạo còn không có mà ăn, áo quần không đủ mặc, tiền sổ vàng sổ đỏ còn không đủ đóng cho mái trường xã hội chủ nghĩa. “Con ngụy” như tôi làm gì dám nghĩ tới chuyện học đàn?


Nhưng chắc trời thương kẻ nghèo. Khi lên Sài Gòn, tôi lại quen chị. Thấy tôi thích quá, chị hỏi tôi muốn học đàn tranh không. Tôi dò hỏi học phí. Tôi không nhớ bao nhiêu, hình như 15 ngàn một tháng, chắc chị cho giá “học bổng.” Tôi về xin Mẹ. Mẹ nói để Mẹ lo. Thế là tôi thành học trò của chị. Mỗi tuần tôi ghé nhà chị, leo hai tầng thang gỗ, học đàn trên gác. Ở dưới là tiệm tạp hoá của gia đình chị. Tôi là con bé nhà quê lên tỉnh, lại là con nhà nghèo, nên thấy tôi không có đàn, chị mới tặng cho tôi cây đàn cũ của chị. Chị thích nó lắm, vì tiếng nó trong. Chị được tặng cây đàn đó khi đoạt giải nhất trong một cuộc thi đàn tranh. Không may, trong một lần sửa nhà, người thợ hồ làm rơi đồ xuống, lủng một lỗ trên mặt đàn. Chị thương cây đàn nên vẫn giữ. Thấy tôi không có đàn, chị nói có thể nhờ người ta dán lại, không tốn bao nhiêu tiền, để tôi có đàn mà học. Lúc đó, tôi ở trọ ở Quận Một. Mỗi lần đi học, tôi đèo theo cây đàn, đạp qua Quận Ba. Chị đàn trước, tôi đàn theo. Tôi chép nhạc trong cuốn tập giấy nhám của thời “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hợi.” Chị thấy tôi hiếu học, nên hễ tôi học xong bài nào là chị dạy tiếp cho tôi bài kế, không đi theo chương trình bình thường. Mỗi lần đến học, tôi đàn lại bài chị đã dạy lần trước. Lần đó, tôi có chuyện buồn, chị hỏi, “Tiếng đàn của em hôm nay hơi gấp gáp. Em có tâm sự hả?” Tôi không là tri âm của chị, vì tiếng đàn tôi non nớt. Nhưng chị là tri kỷ của tôi, vì chị hiểu lòng tôi qua tiếng đàn. Có bữa tôi tới học đàn, chị nhờ tôi xem lại một lá thư bằng tiếng Anh, trước khi chị gởi đi nước ngoài, cám ơn một tổ chức đã trao học bổng cho chị.


blank

“Thời sinh viên có cây đàn tranh xưa"  ở phòng ký túc xá.


Khi tôi đi Mỹ định cư, chị nói tôi đem đàn theo. Tôi cảm động vô cùng. Và cây đàn đó đã cùng tôi mang âm điệu ngũ cung và những bài dân nhạc Việt đi vào những buổi Tết Assembly tại các học khu tại Quận Cam, những chương trình tập huấn (Inclusion Requirement for Title 1) cho các Thầy Cô giáo trường Công lập, những chương trình Tu Nghiệp Hè cho Văn Hoá và Ngôn Ngữ Việt Nam tại các trường đại học, chương trình Trung Thu cho các học sinh tiểu học, vv. Lúc lặn lội từ Quận Cam lên Palo Alto để đi học, tôi đã đưa đàn tranh theo, vì kinh nghiệm xương máu một năm trước, khi tôi qua Thuỵ Điển, không đem theo được, mà nhớ đàn tranh mắc chết, đi tìm khắp chốn cũng không ra. Lúc tôi ở Stanford, có người cũng lấy cớ muốn nghe đàn tranh, đứng rình dưới lầu ngoài cửa sổ ký túc xá của tôi mỗi khi tôi tập đàn. Từ khi được về làm rể của Mẹ tôi, người-rình-nghe-đàn đó không được nghe tiếng đàn tranh nữa, vì tôi mắc sanh con và nựng con rồi. Thôi ráng chờ heng! Mới mười năm thôi, có là bao!


blank

Tác giả đàn đàn tranh, các em học sinh Latinx tại Quận Cam vừa hát vừa múa mừng Trung Thu bằng tiếng Việt do tác giả dạy trong nhiều tuần lễ, 1999.


Sách-Nhạc Thời Cô Vít

Sáng thứ bảy, 17 tháng 10, 2020. Hai dì cháu đi từ 9 giờ rưỡi sáng. 9 giờ là tôi từ thành phố Ho Hem chạy qua thành phố To Ten đón cháu, rồi hai dì cháu thẳng tiến về thành phố Pho Le. Có một tiếng đồng hồ mà tôi chạy vòng vòng hết nửa Quận Cam. Tôi bấm chuông nhà Giáo sư Nguyễn Châu của Đoàn Văn Nghệ Dân Tộc Lạc Hồng. Vị Thầy khả kính đã gìn giữ dòng nhạc Dân Tộc cả mấy chục năm qua tại Little Saigon đón chúng tôi ở cửa. Nhà Thầy nằm trong khu dân cư thật khang trang, thanh nhã. Trên cửa có ghi “Face Covering Required.” Thầy đang dạy đàn tranh. Trong phòng khách có đàn piano và nhiều đàn cổ Việt Nam quý hiếm, được truyền lại từ những bậc thầy. Cây đàn tranh cẩn xà cừ thật tinh xảo, Thầy nói từ cung đình Huế. Thầy tâm đắc cho tôi xem cây đàn cò, được làm từ khúc gỗ mun Thầy tìm được. Cây đàn nặng, chắc. Thầy nói nhờ nó mà Thầy được mời đi thu âm ở nhiều nơi. 


Khi Thầy đưa hai cây đàn tranh ra, thì tôi chấm liền cây đàn gỗ cẩm lai, còn mới tinh. Cô cháu gái chọn cây đàn nhỏ, có cẩn xà cừ. Tôi ráng dụ mà không được. Nói hoài, cháu cũng chỉ cây đàn nhỏ. Thầy nói, thôi mới học thì mua đàn nhỏ, vài bữa học quen rồi mua đàn lớn. Nhưng tôi nói, bắt đầu học thì tìm cây đàn cho tốt, vì về lâu về dài, mình có tình cảm với nó, gắn bó với nhau trong tiếng đàn. Nói gì thì nói, cháu cũng một mực mua cây đàn nhỏ. Tôi đưa cháu đi mua, mà mua cho cháu, nên đành để cháu chọn. Tôi ngậm bồ hòn chở cháu về. Thầy có tặng cho tôi quyển sách “Đại Cương Thang Âm Điệu Thức Việt Nam" mà Thầy mới soạn trong thời gian ở nhà vì đại dịch. Hai dì cháu đều chưa ăn sáng, nên ghé Bánh Mì Chè Cali, mua hai ổ mì không gặm cho đỡ đói, vì có thịt thà thì hơi bất tiện. Chúng tôi ra tới Tú Quỳnh thì cả khu thương mại đã đầy xe. May có người ra, chúng tôi mới có chỗ đậu, để ghé thăm Tú Quỳnh lần cuối.


blank

Cô Yến Tú Quỳnh và những người còn thương chữ nghĩa Việt.


Tú Quỳnh là một tiệm sách nhỏ, hôm đó càng thấy nhỏ hơn vì đầy cả người. Thật cảm động khi thấy tiệm sách đông người, không còn chỗ để vào. Đây là những tấm lòng còn muốn gìn vàng giữ ngọc cho đời sau. Hai dì cháu tôi đứng chờ ở cửa để khi có người ra thì chúng tôi mới vào được. Nhà báo, diễn viên Nguyễn Ngọc Chấn đang phỏng vấn một số người. Cô Yến đứng ở phía ngoài quày tính tiền, hàn huyên cùng thân chủ. Nhiều người bê cả thùng sách lớn, nào sách nhạc, nào báo văn nghệ. Tôi thấy Nhà báo Trịnh Thanh Thủy ở hàng sách bên trong, liền chào chị. Chị cũng chạy qua vui vẻ ôm tôi. Tôi thấy chị đang cầm máy thu âm. Đã lâu rồi, tôi không gặp thi văn hữu, nên rất vui được gặp chị ở đó, và càng vui hơn khi biết chị đang làm phóng sự. Xin cám ơn chị và bao tấm lòng khác vẫn luôn miệt mài tận tụy với sinh hoạt chữ nghĩa Việt ở xứ người. Nhìn quanh, thấy toàn những người tha thiết với chữ nghĩa, văn hóa, văn nghệ Việt Nam, tôi cũng bớt chạnh lòng. Từ tháng Ba tới giờ, bao nhiêu thương vụ nhỏ tại Mỹ đã đóng cửa vì đại dịch. Nhiều công ty lớn cũng phải cắt giảm. Vậy thì Tú Quỳnh phải đóng cửa cũng nằm trong tình trạng chung đó, nhưng đối với thủ đô tỵ nạn Little Saigon và người Việt ở nhiều nơi, thì Tú Quỳnh là một trong những trụ điểm của sinh hoạt văn hóa, văn nghệ. Cho nên chắc chắn đây là nỗi buồn chung. 


blank

Tác giả nói về Tết Việt Nam và trình diễn đàn tranh tại Trường Martin Luther King, 

Santa Ana, Orange County, tháng Giêng 2000.


Vì tôi đã tham gia dạy tiếng Việt với tư cách thiện nguyện ngay tại thành phố Westminster từ ngày đầu tiên đến Mỹ hơn 26 năm nay, nên đối với tôi, tiếng Việt rất quan trọng và là linh hồn của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại, cái dây nối cho tất cả chúng ta ở khắp nơi trên thế giới. Tuy các nhà sách tiếng Việt đều tập trung tại Quận Cam, nhưng vẫn đếm trên đầu ngón tay. Nay một nhà sách đóng cửa, thì cũng là nỗi lo chung, liệu các nhà sách còn lại có còn cầm cự được không, và cầm cự được bao lâu nữa? Sáng đó, tôi có chia sẻ với Thầy Châu ưu tư và nhận xét của tôi đối với tình trạng giảm sút trong việc đầu tư văn hóa cho các em hiện nay, so với hai mươi mấy năm trước. Thầy Châu có nói đó là tình trạng chung, nhất là vì bây giờ có nhiều tài liệu trên internet. Tuy nhiên, dù có phải đóng cửa tiệm sách, hay có giảm sút trong sinh hoạt văn hóa, thì tôi vẫn tin là văn hóa Việt Nam tại hải ngoại sẽ không mai một. Nếu Tú Quỳnh phải đóng cửa vì COVID-19, thì mai này, ắt cũng sẽ có những nổ lực mới, những 'Cô Yến' mới, triển khai những hình thức sinh hoạt mới cho văn hóa, văn nghệ. Ngày xưa, thế hệ thuyền nhân đến tỵ nạn, gặp nhiều khó khăn, ngỡ ngàng, mà đã gầy dựng được nên Thủ Đô Tỵ Nạn tại Quận Cam như ngày hôm nay, thì tôi vẫn có niềm tin mãnh liệt vào một sự tiếp nối và bừng nở của sinh hoạt văn hóa sau khi đại dịch qua đi. Tôi tin vào những tấm lòng của các thế hệ đang lớn, những trái tim hướng về cội nguồn, những bạn trẻ sinh ở hải ngoại, mà tự trao dồi tiếng Việt, muốn học nhạc cụ dân tộc, muốn thấm nhuần văn hóa Việt Nam. Tuy tôi có hơi 'bi quan' khi thấy sự giảm sút trong việc duy trì văn hóa trong thời gian gần đây, nhưng khi nhìn vào chặng đường 45 năm của cộng đồng Việt tỵ nạn tại hải ngoại và tại Quận Cam nói chung, tôi dám đặt niềm tin vào một tương lai vẫn đậm đà bản sắc dân tộc ở xứ người.


Khi hai dì cháu về tới nhà, tôi méc với Mẹ tôi là tôi chấm cây đàn kia mà cháu không chịu. Mẹ vừa nghe tôi nói “đàn gỗ cẩm lai không cẩn” thì theo phe tôi liền. Mẹ nói, sáng đó, trước khi tôi qua đón, cháu đã nói với Mẹ tôi là sẽ chọn cây đàn ít tiền nhất, vì sợ tốn tiền của dì. Tôi hứ một cái thiệt lớn cho đỡ tức. Tôi liền gọi cho Thầy, và xin phép đổi đàn. Thầy nói không sao hết. Cháu cũng muốn đi với tôi, nên hai dì cháu lên đường lần hai. Tôi nói dỗi, “Làm khổ tui nè! Hồi nãy hổng chịu nghe, bây giờ tui phải đi lần nữa nè! Hun cái bù lỗ đi!” Cháu cười mỉm chi, hôn tôi một cái. Mẹ tôi ghen tỵ, “Nó hun dì nó thì tươi rói, chứ đâu phải như lúc hun Ngoại!” Tôi chọc, “Con hun Ngoại đi, để Ngoại khỏi kêu ca nữa!” Đổi đàn xong rồi, tôi đưa cháu về, rồi gọi cho chồng. Đã một giờ chiều. Tôi báo cho chồng tôi là tôi đang trên đường về. Con đã ăn trưa chưa? Chưa! Sao tới giờ này mà chưa ăn trưa? Chờ mẹ! Trời, cơm nước đã soạn sẵn, chờ cái gì nữa! Tụi con không đói. Chờ mẹ về ăn chung. Ba cái loa oang oang tranh nói vô một cái phone. Tôi chào tạm biệt, cúp máy. Nhiều chuyện! Cơm không lo ăn! Nói nói cái gì? Thiệt tình!


nắng rút chiều thu

Năm 2020 nhiều biến động. Nổi trội nhất là Cô Vít tung hoành, gieo rắt tai ương, tung mầm chết chóc. Nhưng có nhiều điều mà Cô Vít ‘rút' đi nhưng không hiển hiện.


Giữa đại hoạ chung của thế giới, thì còn thiên tai lớn cho dân nghèo ở miền Trung. Lũ ngập trời. Khi nước đi rồi, người dân nghèo miền Trung còn lại gì? Những đứa bé ngơ ngác đẫm đất cát như một pho tượng còn chưa khô đang bước đi. Người dân mất trắng. Mà chính quyền lại ‘độc quyền' quyên góp những đóp góp cứu trợ. Rồi lại cũng trò cũ giở giói, nhận mười, giao chưa được một. Trên thế giới này, có bao nhiêu nơi mà con dân phải gánh chịu thiên tai và cường quyền bóc lột như thế này?


Mùa thu ở Quận Cam nắng. Nắng như nung. Thằng bé con hỏi, “Mẹ ơi, đã tháng mười mà sao còn nóng quá?” Cháy rừng triền miên. Thời tiết bấp bênh. Út Út mới năm tuổi mà tối không chịu ngủ. Nó thủ thỉ, “Mẹ ơi, trốt lửa có tràn về thành phố của mình không? Con không ngủ, vì con sợ lửa về.”


blank

Thương sao thằng bé con đẫm bùn đất sau cơn lũ.


Nhưng hôm nay, mặt trời trốn mất. Nắng rút. Thu về. 


Chỗ thì nước nhiều. Chỗ thì lửa khắp. Mẹ Đất mệt rồi! Đời vẫn vạn người lầm than!

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Từ sáng sớm tinh mơ, chúng tôi đã thức dậy để chuẩn bị cho chuyến đi chơi chùa Hương hôm nay. Nhìn Thi, ở cái tuổi lăm, mười sáu trăng tròn tôi không thể không nhớ tới bài thơ “Chùa Hương”...
Cô Tư tôi (tên cô là Ngọc Quỳnh) dáng người thanh thoát, gương mặt sáng, đôi mắt đẹp, đài các. Năm nay bước qua tuổi thất thập nhưng vẫn khỏe mạnh nhanh nhẹn, dấu ấn thời gian vẫn chưa xóa hết nét xuân sắc một thời. Cô có một mối tình “thời xa vắng” thật lâm ly, và bi văn đát. Hôm nay giấu cô, tôi kể lén cho mọi người nghe chơi...
Sau cái ngày mắc dịch 30 tháng 04 năm 1975, tôi bị tống cổ khỏi trường trung học ở Sài gòn vì chạy giặc trước đó và khai hộ khẩu ở ngoại thành sau hoà bình nên phải về học ở ngoại thành. Đúng là trời bắt phong trần phải phong trần/ cho thanh cao mới được phần thanh cao… Mẹ tôi dụng câu Kiều để an ủi tôi hay chửi xéo: Mày ăn ở làm sao mà ra nông nỗi? Thôi thì ý trời biết đâu mà cãi, lòng mẹ bao la như biển Thái bình, chắc mẹ thương cảm mình đó! Nên từ đó tôi yên tâm được biết cây lúa, con trâu… và Thùy.
Từ ngày May về sống với anh. May và Ngạc là cặp đôi trùng phùng do dây tơ hồng nào đâu định liệu, kết lại thành keo dán với nhau. Ơ, có ai biết thời này là thời đại nào rồi, mà hai người tự thề non hẹn biển, kết nối, giao ước sống đời, mà chưa tỏ tường biết rõ mặt nhau. May giới thiệu mình qua điện thoại (thiệt hay giả cũng chẳng biết đâu mà mò). Em không đẹp, chỉ nhìn tàm tạm, bắt mắt với người này nhưng không bắt mắt với người kia. Em chỉ được nước da trắng thôi...
Tiếng hát khàn đục, nghẹn ngào của người ca sĩ da đen phát ra từ chiếc loa nhỏ, cũ kỷ tình cờ ở một góc đường thành phố New York. Họ là những ca sĩ đường phố, hát lang thang đây đó để bán những đĩa hát của mình...
Mẹ và hai chị em tôi đã chuẩn bị xong một bữa ăn ngon lành. Chiều nay nhà có khách. Gia đình bác Hải từ tiểu bang California đến Salt Lake City du lịch và sẽ ghé nhà tôi, mục đích chính là cho trưởng nam của hai bác là anh Nhân gặp Kim Thịnh chị tôi...
Trời xanh lơ, dịu dàng. Chơi vơi đôi ba cánh ưng chao liệng tìm mồi. Rừng thông bát ngát xanh kín rặng núi trùng điệp xa xa. Con đường đất từ ngôi nhà ra đến khu rừng chỉ vừa hai người đi lọt, cỏ tranh mọc um tùm hai bên. Đến bìa rừng, con đường bỗng doãng ra thành khu đất trống, trên đó trơ trọi một mái nhà nhỏ cũ kỹ làm toàn bằng thân gỗ thông trông như nơi trú ẩn của những người liều mạng đi khai phá đất đai, tìm vàng thuở miền đất này còn hoang vu, yên ắng...
Từ muôn đời nay tình yêu là một giấc mộng đẹp giữa đời thường cuộc sống. Có tình yêu, cuộc sống của con người ý nghĩa hơn vì mọi hỷ, nộ, ái, ố cũng như... thất tình sẽ "được" tình yêu mang đến cuộc sống của chúng ta một cách nhanh chóng và "đầy đủ"...
Cơn mưa đột ngột buổi chiều vào ngay giờ cao điểm đông xe, đông người trên phố. Trở lại công việc ngay mùng Ba Tết, bữa nay thì phải chạy giao hàng từ sáng sớm, tôi mệt mỏi tách chiếc ‘cánh én’ cà tàng của mình ra khỏi luồng xe, tấp đại vô một mái hiên. Một chiếc hai bánh khác cũng tấp theo và một cặp trai gái hối hả bỏ xe chạy vô đứng cạnh tôi...
Từ mấy ngày nay, chợ Đầm đã rộn rịp cho bốc thăm, chia lô để làm chợ Tết. Năm nay, theo lệnh nhà nước, Tết đến sớm hơn mọi năm một tháng. Như để nhắc nhở, lịch năm mới được bày nhan nhản khắp các cửa tiệm. Đặc biệt là các cửa hàng quốc doanh thì lại chẳng có cuốn lịch nào, vì lịch đã chui ra ngoài cả rồi. Lịch năm nay trông tiến bộ lắm, thôi thì các tài tử tha hồ mặc đủ loại áo quần thời trang từ nước ngoài gửi về, nghiêng bên này, liếc bên kia, õng ẹo không kém gì các minh tinh màn bạc Hồng Kông. Có cô còn cầm trên tay một trái táo đỏ nhập theo hàng hoá của các tàu buôn chở đến, ra cái điều sung túc lắm. Ngự Chiêu và Thư Hương nắm tay nhau đi thơ thẩn qua các cửa hiệu, vừa chỉ trỏ các cô tài tử trên lịch, vừa cười khúc khích phê bình vô tội vạ. Thư Hương cười đến suýt ngất khi thấy hình một cô gái miền Bắc mặc áo dài cổ cao thật là cao kiểu một ngàn chín trăm... hồi đó!
Sáng hai mươi tám tết, tôi đạp xe xuống quán cà phê Quỳnh Giao ở gần nhà. Quỳnh Giao học sau tôi hai lớp ở trường trung học vài năm trước, nay thì mức độ nổi tiếng của cô ấy như vết dầu loang ra khỏi vùng ngoại ô, lên tới cổng trường đại học bên Sài gòn vì nhan sắc hơn người. Quỳnh Giao đẹp rực rỡ trong mấy chị em gái đều xinh xắn, nhưng tính nết dễ gần của cô được lòng người lớn kẻ nhỏ hơn chị em trong nhà có quyền thế trước biến cố lịch sử. Họ cắn răng chịu đựng cuộc đổi đời hơn là thả lỏng để hoà vào cuộc sống đã đổi thay nhiều như Quỳnh Giao.
Vài cái Tết thuộc những năm người dân cả nước ‘ăn độn’ trong thập niên 1970 thế kỷ trước đã để lại trong tâm khảm tôi dư vị rất chua chát. Nay ngồi chợt nhớ lại mà không khỏi chạnh lòng, vừa sượng sùng vừa tội nghiệp chính mình...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.