Hôm nay,  

Ông Giáo Ngữ

30/03/202008:59:00(Xem: 2455)


 Tiếng kẻng ra chơi vừa vang lên, bọn học sinh ùa ra như ong vỡ tổ, chúng chạy nhảy chơi đùa la hét ầm ĩ quanh căn nhà. Bọn thằng Vinh, Trường, Cảnh… nổi tiếng nghịch ngợm như qủy sứ. Còn tụi con Lành, Lệ, Thúy…thì mê chơi banh đũa, ô làng, nhảy dây…Cả đám học sinh mệnh danh “ Nhất qủy nhì ma thứ ba học trò” nhưng nổi tiếng nhất vẫn là thằng Tèo. Người ta bảo nó đầu bò đầu bứu đến độ nếu nó có té ngã thì người ta xem mặt lộ có bể hay không chứ chẳng lo đầu nó sưng. Bọn nó đã phân công trước, tụi con gái mang theo muối ớt, mắm ruốc vừa ra chơi là thằng Tèo leo lên cây khế hái trái thảy xuống, tụi kia thì canh chừng ông giáo, kẻo không sẽ bị ăn đòn. Những trái khế to như bàn tay người lớn, chín vàng ươm. Cả bọn trốn sau đống khạp, lu, chậu… bên hông nhà vừa ăn vừa suýt xoa khen mắm ruốt ngon, ăn xong kéo laị bên lu nước dùng cái gáo dừa múc uống đã đời. Khế chua, nước lạnh ấy vậy mà chẳng đứa nào đau bụng chi cả. Chuyện tưởng êm xui, không ngờ có đứa nào mách lẻo với ông giáo. Ông giáo giận, đập cây thước bảng ầm ầm:

 - Nhà có phước sanh con giỏi lội, nhà có tội sanh con hay trèo! Tụi bây trèo hái khế, lỡ té xuống sứt tay gãy gọng thì biết làm sao đây? nghịch như quỷ sứ! 

 La thì la vậy chứ ông giáo Ngữ hiền khô, tóc trắng như ông tiên, cặp kiếng lão đeo xệ xuống lưng chừng sống mũi, mỗi khi nhìn ai thì phải ngước lên và lấy ngón tay đẩy kiếng lên. Ông giáo Ngữ lúc nào cũng cười hềnh hệch rất thân thiện và gần gũi với mọi người. Nhà ông giáo là một căn nhà cổ khá to, sân trước ông cho lợp tôn, xây tường thô nối với sảnh trước nhà để làm lớp học. Bên trong có chừng hai mươi dãy bàn ghế dài, những băng ghế nhẵn thín trơn lu vì bao nhiêu thế hệ học trò mài mòn đũng quần. Dân chợ Cây Da và các tổng quanh đây đã bao thế hệ biết chữ quốc ngữ là nhờ ông giáo Ngữ. Ngoại nói ông giáo đã dạy chữ quốc ngữ từ thời Việt Minh nhưng đến hồi quốc gia mới mở lớp dạy cho dân quanh vùng. Vậy là ông giáo đã dạy từ thế hệ ngoại, má, cậu, dì… cho đến tận thế hệ anh tôi và tôi. Không chỉ nhà tôi mà hầu hết dân quanh chợ Cây Da mấy thế hệ biết chữ quốc ngữ đều nhờ công ông giáo Ngữ cả. Ông giáo dạy chữ từ lúc thanh niên cho đến lúc lưng còng, tóc bạc. Tôi vẫn nhớ như in ông giáo thường ngâm nga và dạy tụi tôi:” O tròn như quả trứng gà

        Ô thời đội mũ, ơ thà mọc râu” 

 Hoặc giả như:” A bê xê dắt dê đi ỉa, a ấ ắ nhắc nhớ trả tiền”…

 Ông giáo dạy chữ quốc ngữ cho mọi người, tiền học phí cũng không nhiều nhỗi gì, cả chợ Cây Da và các ấp, tổng quanh vùng đều nhờ ơn ông giáo cả. Tôi và lũ bạn học là học trò  thuộc thế hệ thứ ba. 

 Hôm nọ, thằng Lĩnh đạp lên mấy tờ nhật trình, ông giáo phạt năm roi đau quắn đít:

 - Chữ nghĩa thánh hiền, không được đạp lên, không được quăng bỏ lung tung, không xài nữa thì phải đốt cho đàng hoàng! 

 Ở lớp học, ông giáo dạy thế, về nhà ngoại cũng nhắc hoài:

 - Chữ nghĩa thánh hiền không được đạp lên, không xài vào những việc ô uế, nếu không tôn trọng thì kiếp sau sẽ sanh ra làm người ngu si.

 Má tôi càm ràm:

 - Người ta lấy giấy nhật trình gói hàng tùm lum kìa! 

 Ngoại nói:

 - Người ta hổng biết mới làm bậy, đó là chuyện của người ta. Mình biết thì mình không làm bậy. Ai làm nấy chịu! 

 Không biết ông giáo thời Pháp thuộc có bằng cấp gì không? Nhưng trình độ quốc ngữ của ông rất giỏi. Ông thâu nhận học trò từ lớp mẫu giáo cho đến lớp năm, những độ tuổi và trình độ khác nhau ở trong một lớp, vậy mà tất cả đều thông suốt thế mới tài. Bao thế hệ ông bà, cha mẹ, con cháu biết chữ, biết tính toán đều nhờ ông giáo. Ông giáo chẳng cần danh hiệu “ nhà giáo nhân dân” hay “ nhà giáo ưu tú” chi cả, cũng chẳng văn bằng nọ kia… ấy vậy mà dạy rất tuyệt vời. Bọn học trò phân biệt rõ ràng ch – tr, dấu hỏi, dấu ngã, câu cú rành mạch, ngữ pháp sạch sẽ…Từ cái nền tảng này mà nhiều người sau này học lên cao và thành đạt. Thế hệ cha chú tôi thì việc học dở dang vì chiến sự, vì thời cuộc nhưng thế hệ tụi tôi thì học hành thông suốt, nhiều người thành danh có địa vị cao trong xã hội hoặc thành công trên thương trường. Thằng Thụ là một ví dụ điển hình, hồi đi học nhà nghèo lắm, không có cả chiếc xe đạp, ba là lính Cộng Hoà chết trận , nội làm thầy cúng độ nhật, ấy vậy mà giờ giàu kinh khủng. Thụ giờ là giám đốc doanh nghiệp xuất khẩu đá granite, bao nhiêu núi đá quanh vùng bị khai phá tan hoang. Bạn bè bảo rằng:” Nó có tên trong danh sách hai trăm người giàu nhất nước”. Thằng Dưỡng thì nhà có lò rượu sát bên đình, ngày đi học cũng nghèo mạt, ấy vậy mà giờ là bác sĩ có tiếng trong thành phố và cũng giàu nhất nhì xứ. Giờ nó giàu có, nổi tiếng tăm và cả tai tiếng vì những việc đi ngược với những gì mà ông giáo dạy năm xưa. Thằng Sáng, ba sĩ quan đi cải tạo và chết trong tù. Mẹ lanh lợi làm ăn, biết mánh mung dựa dẫm từ đó phát lên giàu to và trở thành nữ doanh nhân thành đạt. Sáng là công tử ăn chơi mát trời ông địa luôn, hồi đi học nó cũng nghịch không thua thằng Tèo, nó lấy hột mắt mèo mài lên ghế, tuị học trò ngồi lên bị ngứa đít nhảy tưng tưng, địt lủm bũm. Ông giáo điều tra ra và phạt nó qùy suốt buổi hôm ấy. 

 Thời gian trôi qua như bóng mây, thế sự thay đổi như bức tranh vân cẩu. Mỗi người một số phận, tôi lưu lạc lang bang tận chân trời và vẫn thường ví nơi ấy là một vùng phương ngoại. Dù xa xôi nhưng lòng luôn luôn nhớ và hướng về cố quận, vẫn thường thăm hỏi về ông giáo thông qua những người thân ở quê nhà. Ông giáo Ngữ, người dạy vỡ lòng chữ quốc ngữ cho ngoại, mẹ, cậu, dì, anh và thế hệ tôi.

 Lớp học chữ quốc ngữ của ông giáo đã đóng cữa từ lâu lắm rồi, ông giáo cũng như mọi con người khác, ngày càng già vì sự hủy hoại của thời gian. Suốt nhiều năm tháng sau khi đóng cữa lớp học, ông giáo ngày ngày ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế mây ở trước cửa nhà nhìn người qua laị. Thân xác ông giáo co rút laị, lưng khòm xuống trông còn nhỏ xíu và hom hem lắm, duy cặp kiếng lão vẫn đeo xệ xuống sống mũi và nụ cười hềnh hệch thì không hề thay đổi. 

 Những năm tháng cuối đời, ông giáo ngồi trong chiếc ghế mây nhìn người qua laị hay nhìn thế sự và lòng người? khi mà suốt đời dạy chữ cho người mà không thấy một ai còn nhớ đến mình, những đứa học trò “ nghịch như quỷ sứ” ngày xưa giờ đã nên ông nên mụ, đã thành danh, thành công trong cuộc đời. Người ta vẫn bảo: “ Người lái đò suốt đời đưa người qua sông, đến khi mình cần qua chẳng có ai đưa. Người hát đám suốt đời hát cho người, khi mình ra đi chẳng có ai hát cho một câu.” đời đôi khi dễ quên và khắc nghiệt lắm. Ông giáo Ngữ cứ ngồi trong ghế mây như thế nhìn đời cho đến lúc qua đời chẳng thấy một người học trò “ Nghịch như quỷ sứ” của ngày xưa đến viếng thăm.  


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 03/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong trí nhớ của tôi, chị đã đẹp từ thuở mười hai, mười ba, thuở chị vừa rời tiểu học. Nhan sắc diễm lệ theo chị hàng chục năm. Cuối thập niên 70, chị dạy trường trung học bên quận 4. Bao năm qua, bây giờ mường tượng lại thuở ấy, trong trí tôi vẫn rõ hình ảnh chị mặc áo dài tơ lụa màu vàng, màu hồng nhạt, quần trắng, đeo kính mát to kiểu hippie đi dạy.
Ngoại không có học hành nhiều, chỉ qua những lớp bình dân học vụ thời Pháp thuộc nhưng trong đầu là cả một kho tàng ca dao, tục ngữ và cả những câu nói chữ nho. Tôi lớn lên thuộc nhiều ca dao và yêu thích văn chương có lẽ nhờ nghe ngoại hát ru thời thơ ấu.
Trong mỗi mái nhà ở quê tôi, ai ai cũng có một cánh cò thương khó, dù anh là anh bộ đội hay anh lính cộng hoà. Cánh cò của tôi, giờ đây tuy đã cách xa quê hương hàng đại dương vẫn chẳng hề đổi thay - vẫn cái áo bà ba màu nâu xẫm, vẫn chiếc nón lá lấp lánh trong nắng trưa phố Bolsa, … Và dưới cái nón lá ấy, trong bộ bà ba ấy, tâm hồn mẹ là cả một quê hương.
Đôi khi cô nhớ anh bâng khuâng. Nhưng cô không mường tượng ra khuôn mặt của anh thế nào. Lần nọ, anh hát cho cô nghe bài Suối Tóc của Văn Phụng, một bài hát anh rất yêu. Anh hỏi cô, “Biết anh thích nhất đức tính nào của phụ nữ không?” Cô lắc đầu. Anh nhẹ nhàng, “Dịu hiền. Dịu hiền như bé con của anh.”
Chợ Bà Bâu, ngoài tiệm Quảng Lợi Đường còn có hai tiệm thuốc bắc khác là tiệm Đại Sanh Đường và Tân Thạnh Đường, cả ba tiệm đều làm ăn phát đạt cả. Ông già Tàu họ Diệp người triều Châu. Ông chủ tiệm Đại Sanh Đường họ Hàn, gốc người Hẹ. Còn ông chủ tiệm Tân Thạnh Đường người Vân Nam.
Đúng mười một giờ đêm nay là tròn sáu tháng. Sáu tháng ân cần che chắn, chia sẻ êm đềm. Sáu tháng ấm áp nghĩa đồng hương, sáu tháng ngọt ngào tình đôi lứa. Men rượu cháy bỏng hai vành tai, xém cả vùng da cổ. Cái mặt chắc đỏ như mặt trời cuối mùa hạ. Cái mặt trời tối nào cũng đi ngủ muộn
Đó là món ăn để những bà con xa gần, những bằng hữu hay những láng giềng thân quen chan hòa xì xụp nhân ngày kỵ giỗ, ngày mừng lúc mới hay bất cứ dịp vui nào đó. Đó là cái hồn của những quán lá liêu xiêu bên con đường đất hay sùm sụp một góc chợ quê, vỏn vẹn vài ba cái bàn gỗ chông chênh, có những ống đựng đũa bằng tre, có thêm chai rượu đóng nút bằng cùi bắp hay bằng nắm lá chuối khô cuộn tròn kề bên. Đó là những cái tô tai bèo vàng rượm những sợi mì màu nghệ hay trắng tinh màu gạo, lác đác những khoanh ớt đỏ rói, những hạt đậu phộng rang chín vỡ tan màu nâu nhạt, thêm vào những mảnh bánh tráng khô nướng lấm tấm hạt mè. Đó là món ăn mà, bên tiếng vỡ lắc cắc của những cái bánh tráng giòn tan, bên những tiếng “khà” bật ra sau một ngụm rượu đế, người ta rổn rảng kể chuyện mùa màng, chuyện chòm xóm, chuyện gia sự con cái và cả chuyện nước non chính sự nữa. “Hương vị riêng” của mì Quảng, một phần, nằm ở sự chan hòa, sự mộc mạc và xuề xòa ấy.
Thế là gã tỉnh ra, tỉnh hẳn như người lim dim chợt thấy kẻ trộm vào nhà, tỉnh tợ như chơi xì ke vừa vã thuốc gặp cảnh sát. Nói theo lối thiền gia thì gã ngộ, đã một thời gian dài gã cứ thấy cái gì ngộ ngộ là vác, giờ thì khác rồi, không vác nữa nên ngộ hay là ngộ mà không vác nữa thì gã cũng chẳng phân biệt được! Đời vốn đã ngộ mà gã còn ngộ hơn đời, bởi thế mà bạn bè thân sơ đều gọi là gã khờ.
Nhân bài văn của cháu ngoại về phở nên “bàn hươu tán vượn” vể phở và cuốn sách “A Phở Love Story”, rất tiếc báo chí Việt ngữ ở Mỹ không khuyến khích giới thiệu nhiều về quyển sách nầy, cây bút trẻ Loan Le có ý nghĩ chọn món ăn của quê hương để viết cho độc giả Mỹ qua chuyện tình tuổi teen với bìa sách chân dung đôi bạn trẻ (trai, gái) với tô phở thật ý nghĩa.
Cuộc đời của thiên tài Steve Jobs mãi mãi ngừng ở tuổi 56 để lại tiếc thương cho cả triệu người khắp thế giới. Đóng góp của ông cho khoa học đã tạo cảm hứng cho họa sĩ Gudjonsson vẽ hình ông cầm trái táo đứng trước cửa thiên đường, kèm theo lời chú thích : "Có ba trái táo trong lịch sử của nhân loại : trái táo của ông Adam, trái táo của ông Newton, và trái táo của ông Jobs.”
Ca dao bình dân thì đơn giản hơn nhưng cũng rất tha thiết: ”Gió đâu gió thổi sau lưng/ Dạ đâu dạ nhớ người dưng vô cùng”. Rõ ràng cái nhớ thiết tha biết bao, tưởng chừng “Người dưng” rất xa lạ, mơ hồ nhưng lại nhớ không quên.
Mấy tháng trước đây chúng tôi đã gặp một cặp chồng Mỹ vợ Việt tại nhà thờ Saint Patrick trong buổi lễ tang của một bà đồng hương già trên 95 tuổi. Bà Th. trước 75 làm sở Mỹ có chồng lính Mỹ là người sớm nhất đến thành phố chúng tôi đang ở. Những người Việt đến sau như tôi thường đến tá túc một vài tháng đầu tiên tại nhà bà. Lễ tang của bà tập họp gần như đầy đủ người Việt đã từng quen biết bà trong đó có cặp chồng Mỹ vợ Việt nầy đến từ một thành phố khác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.