Hôm nay,  

Chân Dung Người Tỵ Nạn

30/03/202008:53:00(Xem: 3862)

                                         

                        

Anh hớt ha hớt hải bước vội vào văn phòng tôi từ thang máy, vừa hào hển thở, anh vừa nói:

-  Bác sĩ làm ơn gọi giùm hãng của tôi là tôi cáo bệnh hôm nay. Gọi đi bác sĩ, kẻo trễ mất.

Anh vội vã đưa số điện thoại của hãng cho tôi. Khi nhìn số điện thọai, tôi hiểu ngay đó là số điện thoại quen, của một tổ chức chuyên tìm công ăn việc làm cho những nguời không có khả năng Anh văn và chuyên môn, như làm lao công chùi nhà, chăm sóc các phòng vệ sinh trong các khách sạn, trong các cao ốc của các cơ quan chính quyền…Nhìn lại anh, anh vẫn hào hển thở. Anh thở nông và nhanh. Tim anh đập nhanh. Trông anh vật vã. Anh đang hoảng sợ. Anh cố nắm lấy tay tôi thật chặt, mặc dầu anh không còn đủ sức để nắm thật chắc như anh mong muốn.

Anh thều thào:

- Bác sĩ cứu tôi một lần nữa đi. Tôi sắp chết. Chắc kỳ này tôi chết thật rồi!

Nhìn anh, tôi xót xa vô cùng. Anh là người bạn thân của tôi trong mấy năm nay, kể từ ngày anh đến Mỹ theo diện H.O vào năm 1992. 

Tôi nắm lấy tay anh:

- Anh Đinh, anh an tâm. Anh cứ làm như những lần trước: hít vô thật sâu…thở ra thật lâu… Tôi  đang bên cạnh anh đây. Anh đừng sợ. Cứ làm đi anh…

- Vâng, tôi đang làm đây… Sao nãy giờ mình quên khuấy đi mất.

- Anh yên lặng thở, hít vô thật sâu…thở ra thật lâu…Tiếp tục làm như vậy trong mươi, mười lăm phút là anh thấy khỏe ngay. Tôi vừa quan sát vừa nói như để đánh nhịp cho anh thở:

 …Hít vô thật sâu…thở ra thật lâu…Hít vô thật sâu…thở ra thật lâu…  

Lúc đầu, anh có vẻ bối rối, khó điều khiển nhịp thở vì anh không mấy tự tin. Sau vài phút, nhờ tôi “đánh nhịp”, anh thở đều đặn nhịp nhàng hơn. Trong chừng 10 phút anh chủ động được nhịp thở, trông anh khỏe ra. Sau đó chừng năm mười phút tôi thấy anh cười, như mọi lần trước, nụ cười có vẻ bẽn lẽn, thú tội như anh vừa giả dối một điều gì. 

Anh nói:

- Tôi thấy ấm lại rồi anh. Tôi nghe ấm nóng…và khoẻ.

Mồ hôi rịn ra từ sống mũi của anh, từ trán của anh, rồi cả mặt và cổ của anh. Trong bỗng chốc cả người anh toàn là mồ hôi. Tôi bảo:

- Vì người anh vừa được ấm nóng trở lại nhanh, và đang có nhiệt độ cao, cho nên nó gây ra phản ứng tự nhiên của cơ thể, xuất mồ hôi để bảo hòa nhiệt độ. Nghe anh ho khúc khắc, tôi lấy áo vest của tôi đang mặc, phủ vội lên người anh:

- Thận trọng đấy anh, cảm lạnh là khổ.

Anh có vẻ ngượng, anh bảo:

- Người tôi tòan mồ hôi thế này thì bẩn cả áo của anh mất.

Tôi cố tình đè nặng chiếc áo trên người anh như để thấm mồ hôi và che cho anh thêm ấm. Tôi nói như đùa với anh:

- Nó có bẩn thì tôi giặt. Giặt lấy liền, tiệm giặt gần đây thôi.

Anh vừa cuối xuống nhìn mũi giầy, anh vừa nói:

- Bịnh gì như quỉ ám, như giả vờ. À mà 2 tháng rồi đó anh, mới có lại. Chứ cách đây mấy năm, anh còn nhớ, hồi tôi mới gặp anh, tuần nào cũng có, ít nhất là 2 hoặc 3 lần, đôi lúc có ngày có cả 2 lần. Chết người thật. Phương pháp “thiền” chủ động điều khiển nhip thở của anh hay thật.

Tôi cám ơn anh đã có lời khen. Tôi nhắc anh, phương pháp của tôi là Đông-Tây-đề-huề cho nên anh cũng đừng quên uống thuốc Alprozalem hàng ngày.

Chợt anh đứng dậy, như quên điều gì, anh nhìn đồng hồ:

- Xin phép anh tôi phải đi làm gấp.

- Tôi đã gọi cáo bịnh cho anh rồi.

- Vẫn biết thế, nhưng tôi phải vào và xin lỗi nó và làm. Tuần vừa rồi tôi nghỉ hết một ngày bịnh. Kỳ này nghỉ nữa thì bất tiện lắm. Thằng ‘manager’ mới là một thằng Mễ, nó cứ hâm he tìm cách đuổi người, để đưa người của nó vào. Rủi mà bị nó chiếu cố thì bỏ mẹ, mất job, không có bảo hiểm sức khỏe thì sống làm sao nỗi? Như bác sỹ thấy đó sáng nay mà không có bác sỹ, đời tôi coi như đi “Đức”. Còn bà vợ ở nhà nữa, sức khỏe cứ en ét quanh năm suốt tháng, là bác sĩ anh biết đấy, sức khỏe và tâm thần của đàn bà ở thời kỳ mãn kinh.

Không biết cách nào hơn, tôi đành tiễn anh đến cửa thang máy, chủ yếu là để theo dõi anh thêm vài phút. Hình như anh cũng cảm thấy điều ấy, anh nói:

- Quen quá rồi anh. Anh an tâm tôi không sao.

Cách đây 30 phút tôi cố gắng trấn tỉnh anh. Bây giờ thì anh trấn tỉnh tôi. Khi anh bước vào bên trong thang máy, tôi chợt nhớ điều gì, tôi vội vàng hỏi vói theo anh:

- Vết thương ngực trái của anh, mấy năm nay nó vẫn ổn chớ?

Tôi nghe anh ấy trả lời sau khi cánh cửa thang máy vừa khép lại

- Nó vẫn ổn đấy. Cám ơn bác sĩ.

 

Anh Đinh nguyên là Trung tá quân lực Việt Nam Cộng Hòa, nguyên Trưởng Phòng Hành Quân của tướng Ngô Dzu tai Cao Nguyên, năm 1975 anh bị kẹt lại. Có lần anh nói :

- Hồi tháng 3/75, sau khi chúng tôi rút từ Cao Nguyên về các tỉnh duyên hải, chúng tôi tập trung ở Tuy hòa, rồi về đến Nhatrang. Mỹ nó không bốc, đành chịu. Toàn bộ anh em bị kẹt lại. Chúng tôi biết lắm, ở lại với Cộng sản chỉ có từ máu đến nước mắt. Tôi đã từng nắm tiểu đoàn đánh với họ. Chết! Họ chết dữ lắm. Họ cuồng tín. Họ căm thù. Họ căm thù ta, có lạ không anh? Chúng ta đánh với họ vì bảo vệ mạng sống của chúng ta. Còn quân đội Bắc Việt đánh chúng ta là cố tiêu diệt chúng ta, cố giết chúng ta. Đối diện với họ trên mặt trận mới thấy cái dã man của chû nghïa Mac Lênin nó dạy con người căm thù con người không một ý thức gì về dân tộc giống nòi. Đó là điều làm tôi ghê tởm chế độ Cộng sản.

 

Anh Đinh và tôi quen biết nhau vào năm 1992, lúc đó tôi đang làm tư vấn cho các học sinh và gia đình ngườì Việt tại các trường trung học ở vùng Uptown/Chicago cũng tại văn phòng của cơ quan Asian Human Services in Chicago. Chủ yếu của chương trình là dạy thêm Anh ngữ cho các cháu tị nạn mới qua. Nhưng khi đi vào nhà trường thì thấy vấn đề khác hẳn. Nói đúng ra nó không phải là khác mà là nó bề bộn và nghiêm trọng hơn. Có nhiều vấn đề vượt cả văn hóa, giáo dục, nó thuộc về luân lý đạo đức và pháp luật. Tôi làm việc cả 3 trường cấp 3. Tôi đều có văn phòng và họp thư riêng tại mỗi trường. Lần đầu tiên tôi đến nhận việc ở trường gần sở, một cảnh tượng kinh dị xảy ra khiến bà giám thị đến gặp tôi trong lúc tôi đang hầu chuyện với ông hiệu trưởng:

- Xin lỗi ông hiệu trưởng, có phải ông này là ông tư vấn học đường người Việt không?

Ông hiệu trưởng nhìn bà giám thị một cách nghiêm nghị, ông ta ôn tồn đáp:

- Vâng ông ta là bác sï người Việt vừa đến nhận việc, Bà Cleverton bà cần làm việc gì với ông ta không?

Bà giám thi nhìn tôi:

- Vậy xin mời bác sï đến khu hồ tắm.

Tôi liền đưa tay bắt tay ông hiệu trưởng và cám ơn thì giờ quí báu của ông. Tôi đi theo bà giám thị. Bà đi thật nhanh. Trông bà nóng như khối than hồng đang di chuyển. Bà vừa đi bà vừa nói:

- Không thể tin được thằng bé Viêt Nam lai, thằng lai Việt Nam, thật khốn nạn! Nó hành động như thú vật, nó thú vật thật, nó là thú vật.

Tôi liền nắm lấy tay bà và giữ bà thật chắc, và nói thẳng vào tai bà:

- Bà Cleverton, xin bà thận trọng, tôi thấy bà mất khôn ngoan rồi đấy…

- Tôi muôn vàn xin lỗi ông. Chúng ta không có quyền gọi ai là thú vật. Xin ông tha lỗi cho và cũng mong ông hiểu cho tôi vì tôi giận quá đâm ra mất trí…

 Chuyện đến đây thì chúng tôi cũng vừa vào khu hồ tắm. Bà Cleverton dùng ngón tay trỏ chỉ về một cậu Mỹ lai Việt da trắng.

- Nó đó! Nó tên là Bob. Ông có thể tưởng tượng cách đây 45 phút nó vừa vỗ đít một cô bé nữ sinh trong hồ tắm. Cô bé mặc đồ bikini, vừa ở dưới nước ngoi lên, đi ngang qua mặt nó, nó liền vỗ đít con bé. Trời! Hiện tượng chưa từng có trong trường này. Thật là quái dị!. Xin ông mang nó về phòng và làm việc với nó. Bà thở ra mệt nhọc.

 

Bob là anh chàng Mỹ lai da trắng, tóc vàng, vóc dáng trung bình, không to con lắm, người trông có vẻ thanh tú nữa là khác. Gưong mặt anh phản phất buồn, trông hao hao như gương mặt James Dean. Đặc biệt đôi mắt vàng nâu của anh trông vừa lãng mạn tình tự, vừa hung bạo, giống cặp mắt tài tử màng bạc của Mỹ, Steve Mac Queen. Anh có dáng dấp một kẻ bất cần đời. Anh chắc chắn là một giọt máu rơi tuyệt vời. Cha của anh có thể là người lính chiến bất đắc chí, bị lôi vào quân đội từ sân trường đại học nào đó tại Mỹ. Dưới bộ quân phục đến Việt Nam, ông ta tìm cách lãng quên đời, trao thân gửi phận cho một ả giang hồ. Bob sinh ra đời trong nghịch cảnh như thế. Không ai muốn có Bob cả. Đối với bố mẹ anh, anh chỉ là tai nạn.

Tôi hỏi Bob:

- Anh đến Mỹ anh có cố gắng tìm ra tông tích của cha anh không?

- Có ai công nhận đâu mà tìm với kiếm. Cộng đồng Việt Nam, không công nhận tôi là người Việt, họ bảo tôi lai Mỹ, còn người Mỹ có bao giờ họ thừa nhận tụi này đâu, họ bảo tụi này lai Việt. Họ cho tới Mỹ là quí rồi. Tôi đến Mỹ là tôi thương bà già tôi đi vậy chớ, tôi tới Mỹ tôi đâu có để ý tìm cha tôi. Ổng cũng có đời sống khác và chắc ổng cũng quên bà già tôi và tôi rồi.

- Tôi nghe anh nói giọng Saigòn, làm tôi nhớ Sàigòn vô hạn.

- Có ai ở Sàigòn đâu mà nói giọng Sàigòn làm ông nhớ. Sinh ra được 3 tháng, ông già cuốn gói về Mỹ, bà già đem tôi về Lịch Hội Thượng giao cho bà ngoại nuôi. Bà già quầy quả trở lên Sàigòn lo làm ăn. Bà gửi tiền về nuôi cả nhà bà ngoại. Một năm, năm bảy tháng mới thấy bà về thăm tôi một lần

- Anh nói quê ngoại anh ở Lich Hội Thương, vậy mẹ anh là Tàu lai?

- Bà già tôi cha Tàu, mẹ Việt, nhưng bà không biết nói tiếng Tàu. Nghe nói mẹ tôi lớn hơn cha tôi năm sáu tuổi gì đó. Trước khi lấy cha tôi, bà có một đời chồng người Việt mình, có hai đứa con với ông ấy. Khi người Mỹ đến, bà bỏ ông chồng người Việt, bà lên Saigòn làm ‘cava’ rồi lấy cha tôi. Tôi cũng chỉ nghe Bà Ngoại tôi nói như vậy, chớ bà già tôi không bao giờ bà nói về bà cho tôi, bà cũng không nói về cha tôi.

- Trên giấy tờ thì năm nay anh 19 tuổi và học lớp 12?

- Đó là khai gian, tôi sanh năm 1970, năm nay tuổi thiệt của tôi là 21. Cách đây 2 năm, hồi mới đến Mỹ, tôi tự ý khai nhỏ tuổi, để tiếp tục học, kiếm ít chữ nghĩa để sau này đi làm công nuôi bà già, nhưng coi bộ cũng mệt. Ở trong nước, nhờ Bà Ngoại cho cắp sách đến trường một hay hai năm để biết đọc biết viết tiếng Việt, rồi ở nhà, đi bụi đời. Đến Mỹ khai là 17 tuổi, họ cho ngồi ít nhất là lớp 10. Làm sao học nổi. Chán đời, bỏ trường, bê tha ngòai đường. Chơi thử cần sa, bị tụi nó gài hoài, rồi bực tức, đánh lộn, vào tù ra khám. Chắc đời tôi không đi tới đâu, lảm bà già buồn. Tội nghiệp bà, một đời bà khổ cực vì tôi.

- Anh thương bà già anh?

- Ở đất nước người, ngó trước, ngó sau chỉ có hai mẹ con, không thương sao được. Mà trên đời này có ai là người không thương mẹ. Khi tôi lên Đầm Sen ở Phú Lâm, để lo giấy tờ đi Mỹ, Mẹ tôi nhiều lúc muốn tôi đi Mỹ một mình, cho nên bà cho tôi tấm ảnh này. Sau đó, bà nói bà không thể nào sống mà không có tôi bên cạnh bà. Mà nói thiệt tôi không thể đi Mỹ một mình, vì làm sao tôi sống xa mẹ tôi được. Anh vừa nói vừa chìa tấm ảnh của mẹ anh cho tôi xem. Đó là tấm bán thân đen trắng, cỡ 4 x 6 cm. Tấm ảnh này đã chụp lâu lắm rồi. Người đàn bà trong tấm ảnh trẻ cỡ 28, 30, có đôi mắt và mái tóc đen huyền hoặc, mặc áo ngắn tay, hở ngực, cổ trần, da trắng, trông bà hao hao một nửa giống ca sĩ Khánh Ngọc, một nửa giống Liz Taylor. Lật sau tấm ảnh tôi thấy hàng chữ bà ghi: “Hên, ở đất nước người lúc nào con cũng ghi nhớ con là người Việt Nam, con là con của Mẹ”. Tôi vừa cầm tấm ảnh vừa đọc hàng chữ của mẹ anh ấy, vừa theo dõi anh. Thốt nhiên, Bob nói với tôi một cách trân trọng:

- Thưa Bác sĩ, câu đó chính tay mẹ con viết. Tên Việt Nam con là Hên, tên thật là Henri.

- Anh có biết, nói chuyện với anh và đọc câu ghi chú của mẹ anh trên tấm ảnh, làm cho tôi xúc động không?

- Thưa bác con biết chớ. Mà bác có biết bác là người duy nhất hồi giờ con nói chuyện nhiều, mà cũng là người duy nhất con đưa cho xem tấm ảnh của mẹ con? Bác có biết con Sylvia con nhỏ mà con vỗ đít nó trông hồ tắm không? Nói thiệt nó cũng thích con thấy mẹ! Nó làm điệu làm bộ như vậy. Con cũng biết làm như vậy là coi không được, nhưng thấy nó cũng ngứa tay nên chọc đời cho tức một tí vậy thôi. Vỗ đít một đứa con gái có nhầm nhò gì, nhất là gái Mỹ…

Chỉ không đầy năm phút Bob đảo lộn tư tưởng của tôi về anh ta dữ dội, đầy mâu thuẩn trong con người ấy. Anh đúng là trái đắng của cuộc đời, một tâm hồn đầy giống tố và bão nổi. Anh là hậu quả của sự va chạm giữa Đông và Tây, giữa kẻ xâm lăng và người bảo vệ, của một cuộc chiến dai dẳng. Bob dù sao cũng đáng thương thật, cần được giúp đỡ. Anh ấy chỉ cần một điểm tựa vững chắc là có thể đứng dậy, đi thẳng người được. Trong những buổi tư vấn sau đó, Bob cũng thổ lộ nhiều điều về cuộc sống khó khăn, về tương lai đen tối của anh:

- Bác sĩ nói tương lai tụi này đen tối hả? Tụi này đâu có tương lai mà nói đen với tối. Con mấy ông sĩ quan H.O. mới qua cũng vậy thôi, cũng lờ quờ như tụi con, cũng khó khăn, cũng ngơ ngác trong lớp học, cũng ngạc nhiên khi thấy mình lại đứng trước bảng đen. Thì bác thử nghĩ, Việt cộng vô hồi 75, lúc đó tụi nó có 7, 8, 9, 10 tuổi cỡ đó, cha tụi nó không là ngụy quân cũng ngụy quyền đi học tập mút mùa. Mẹ tụi nó cũng như mẹ con, chỉ biết nội trợ, có biết bán buôn gì đâu mà nuôi con cái. Cho nên sau  5, 6, 7, 8, 9, 10 năm hay lâu hơn nữa, cha đi tù cải tạo không thấy ngày về, ở nhà tiêu hết tài sản dành dụm được, con cái rời bỏ sách đèn, rời bỏ mái trường, kiếm sống. Nói chi những năm 80, kinh tế khó khăn, ăn độn cả nước. Ngay cả lũ con cái gia đình cách mạng cũng vậy, cha thì vác súng đi giải phóng Kampuchia, mẹ tụi nó cũng như mẹ tụi này, cũng phải ngồi bán thuốc lá đầu đường xó chợ, kiếm sống qua ngày. Kẻ thì đợi chồng về từ lao tù cải tạo, người thì đợi chồng về từ chiến trường Kampuchia. Còn tất cả con cái, con cách mạng cũng như con ngụy, mới 12, 13, 14, 15 tuổi không phải chôm chỉa, thì cũng còm lưng trên chiếc bôm xe đạp mà độ nhật nuôi thân. Nói tới đây, ngừng một hồi, coi bộ anh cũng mệt, nhưng xem chừng anh còn muốn nói nữa, và tôi cũng biết đây là cơ hội hiếm có để cho anh được giải bày, và cũng để tôi tìm hiểu anh.

- Như bác biết, anh tiếp tục nói, các ông sĩ quan của mình, sau 8 năm, 10 năm, có người 12 năm đi tù cải tạo về. Họ già. Con cái đều lớn cả, học hành đứt đoạn từ lớp 5 lớp 6. Đùng một cái các ông ấy được đi Mỹ theo diện “Từ thiện” H.O. Thật sự phỏng vấn để đi Mỹ thuộc diện H.O từ khi con còn ở bên nhà, từ năm 1987 có thể sớm hơn nữa là khác mà mãi đến năm1990- 92 những đợt đầu của diện H.O mới đặt chân lên đất Mỹ, thì đủ biết Việt cộng họ cố tâm trì hoãn biết chừng nào, làm mấy thằng bạn con mới qua sau, bị trễ tràng học hành sâu đậm hơn. Đến Mỹ tụi nó cũng khai tuổi nhỏ lại, để tiếp tục đến trường kiếm thêm một ít chữ nghĩa hòng sau này kiếm sống. Tụi nó, rồi cũng hố như con, cũng ngơ ngác trước bảng đen, cũng bỏ trường, cũng chán đời như con…Đừng nói chuyện thần-đồng với tiếng Mỹ. Tiếng Mỹ tại Mỹ khác với tiếng Mỹ tại Việt Nam trước 75. Học tiếng Mỹ để lấy Mỹ, Ç‹ làm bÒi phòng, Ç‹ làm tay sai, khác với học tiếng Mỹ để trở thành công dân Mỹ, công nhân viên chức Mỹ.   

Nói đến đây tôi thấy những điều nhận xét của Bob rất sâu sắc, mặc dầu anh nói với âm điệu giản đơn chân chất của người Nam. Trường đời đã dạy Bob những bài học nhiêu khê và cũng thực tiễn. 

Chợt nhớ đến mẹ anh, tôi hỏi:

- Đến năm 1990 mẹ anh và anh được đi Mỹ theo diện “Con Lai Làm Lại Tổ Quốc”-Amerisian Repatriation-Thế thì những năm 80 đến 90 mẹ anh làm gì để sống? Tôi thấy Bob khựng lại, trước khi trả lời. Anh có vẻ đâm chiêu khi tôi nhìn thẳng vào mắt anh.

Bob nói:

 - Vợ của các ông sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa còn trong ngọc trắng ngần, gìn vàng giử ngọc cho chồng cho con, họ khinh thị sự dòm dỏ của máy ông Cách mạng, họ coi những ông cách mạng như những binh nhân viêm gang, nghiên rượu, ho lao, sốt rét rừng…Mẹ con thì một thân đơn chiếc cũng như không có ai để bà nương tựa. Sau 75 mẹ con về Lịch Hội Thượng, không có một đồng xu dính túi, lúc Ãy con m§i có 5-6 tu°i. Mẹ con phải nuôi con và phøng dÜ«ng bà ngoåi con. Mẹ con là một người đàn bà thực tế. Mặc dầu hơi lớn tuổi, mẹ con vẫn còn nhan sắc. Lúc ấy các ông lớn Cách mạng họ phú quí, họ sanh tật thường hay dòm dõ đàn bà con gái vợ con của “ngụy”. Những năm 80 mẹ con lập quán cà phê ở Vĩnh châu, đắt như tôm tươi, dập dìu tài tử giai nhân, hội tụ đủ mọi anh hùng, mọi cấp bậc quân hàm, từ cán sơ đến cán cao. Bà xây s¤n mộ phần cho bà ngoại con. Mẹ con đóng sẳn một cái ‘hòm’ bằng gỗ sao, để sơn trong nhà cho bà ngoại con thấy mà an dạ. Mẹ con cấm con không được lai vãng tới quán bà đang làm ăn. Tuyệt đối con luôn luôn sống với bà ngoại con. Đêm ngủ với bà ngoại, ngày đi chơi với bà ngoại, đôi khi giúp đỡ bà làm việc nhà. Cũng vì quá thương con, bà ngoại nuông chiều con, thả con đi chơi chung với lũ con của mấy ông Cách mạng đôi ba ngày. Những lúc đó nghe tụi nó kể chuyện làm ăn của mẹ con, con nghe mà đau lòng. Bác biết, vì quán xá mà mẹ con phải làm ăn với mấy ông cách mạng vào những năm 80, mẹ con đã phải phá thai 2 lần! Cũng vì chuyện đó mà bà ngoại con sau này đau lòng sanh bịnh mà chết. Sau câu nói ấy, Bob khóc như một trẻ thơ. Tôi ân cần nắm lấy tay anh, và hẹn gặp anh ngày mai khi tôi xuống đến các lớp để tìm hiểu thực tế. 

 

Được giới thiệu từ văn phòng hành chánh của trường, tôi đi xuống các lớp. Lúc ấy, trường này có vào khoảng 150 học sinh Việt Nam, có hai thầy, hai cô người Việt. Sau vụ hè vừa rồi nhà trường đuổi mất một ông. Cũng tại thằng Bob. Ông đó là ông giáo trẻ, dê một cô nữ sinh, dĩ nhiên là nữ sinh Việt Nam, học trò của ông, mà cũng quen với Bob, chỉ quen vậy thôi, bạn cùng lớp cùng trường. Khi cô ấy được ông giáo chiếu cÓ, gọi lên bảng để giải bài tóan. Cô bé lính quýnh không biết chỗ nào đứng hay ngồi cho tiện, ông giáo thấy vậy, bèn kéo cô ngồi trên đùi ông. Cô bé la hoảng lên. Chỉ có vậy mà thằng Bob cũng nổi nóng, nhào lên đánh ông giáo hai bạt tai, và chửi ông ta là quân khốn nạn. Đó là nguyên văn bà Cleverton kể cho tôi nghe, và bà nói:

- Thằng Bob như vậy nó cũng hơi quá phải không? Mấy ông bà giáo người Việt nói với tôi như vậy, cho nên tôi đuổi nó ra khỏi trường, cấm tuyệt đối nó không được đến trường suốt trong ba tháng hè! Lúc đó là cuối niên học. Còn chuyện ông giáo nghỉ việc, nhất là ông giáo là Boat People, đến Mỹ năm 1978, ông ta có chế độ bao cấp, chính quyền thành phố giới thiệu vào dạy ở trường này thì không ai dám đuổi đâu. Ông ấy nghỉ việc là tự ông ấy xin nghỉ… Và bà nói trong giọng nhỏ lại:

- Ông ấy có job tốt hơn. Lương thầy giáo đói lắm… 

 

Tôi đến lớp thầy Đông. Tôi với thầy Đông có quen nhau. Ông ta gặp tôi, thật tình mà nói ông ta cũng mừng. Ông đưa tôi vào lớp và giới thiệu với học trò:  

- Nghe đây! Ông Bác sĩ này cũng có con lớn như tụi bây. Tao nói cho tụi bây biết, ông ấy đến đây mỗi tuần nửa giờ tại lớp này, để nói về…Xem chừng ông giáo quên, độ ấy ông có vẻ lẫn. Tôi

 liền đỡ lời ông:

- Tôi được phép đến đây để nói với các anh chị về những tai hại của xì ke ma túy cũng như của sex và những chứng bịnh do nó gây ra. Và nếu có thể tôi sẽ nói về đạo đức và xã hội.

   Tôi nghe tiếng của một nữ sinh:

- Cha! Coi bộ hơi nhiều…

Rồi cô đứng phắt dậy, nắm chiếc ghế cô đang ngồi, quay đúng 180 độ. Cô ngồi chàng hảng kẹp cái ghế giữa hai đùi, đặt cầm lên chỗ tựa lưng của ghế, mắt lém lỉnh nhìn tôi, cô dõng dạc hỏi:

- Ông có chơi chưa mà ông nói về các thứ đó?

Cả lớp cười ồ lên. Tôi cũng cười theo. Tôi cố tình cười lớn hơn và lâu hơn họ. Có vài cặp mắt xoe tròn nhìn tôi.

  Tôi nói:

- Dĩ nhiên trước khi đến nói chuyện với các anh chị, tôi cũng phải kinh qua một khóa học tập, tôi phải biết thế nào là bạch phiến, thế nào là cần sa, thế nào là ma túy…

- Ông có biết, hiện giờ giá chợ đen bao nhiêu một gram cocaine không?

- Vào khoảng 200 đô la.

Câu trả lời của tôi như một phản xạ, làm cô bé cụt hứng, cô bé la lớn

- Alphonso, có phải đúng như vậy không mày?

   Có ai trả lời ở cuối lớp;

- Đ.m. hỏi chuyŒn bá vơ không!

   Cả lớp cùng cười. Lần này tôi không cười theo họ, và cũng chẳng buồn để ý ai là kẻ vừa trả lời câu hỏi của cô bé. Cái sắc thái của lớp học đang lôi cuốn tôi một cách mãnh liệt. Bob đang ngồi cuối lớp. Chung quanh anh có một số học sinh trông họ không mấy gì vui nếu không muốn nói các cháu đó trông có vẻ lạc lõng, yên lặng, ít cười, thường nhìn những đám mây bay ngòai cửa sổ. Họ không hề tham gia hay góp ý gì lúc tôi nói chuyện. Ông giáo Đông hình như vừa bắt được ý nghĩ của tôi, ông vừa nói với tôi vừa hất hàm về phía các cậu ấy:

- Tụi đó là con của đám sĩ quan H.O. mới qua. Hồi 75, các trường ốc ở Mỹ, nhất là các vùng như vùng này, được nhận con em người Việt vào học, họ mừng lắm. Lúc đó học sinh Việt Nam là những đứa trẻ thông minh, có giáo dục luôn luôn dẫn đầu lớp, nâng cao trình độ của lớp của trường thấy rõ. Hồi đó họ quí học trò Việt Nam lắm. Bây giờ thì thôi!...Họ sợ, toàn là con thuyền chài không. Dốt nát lắm, phá phách lắm… Nhất là các đợt đến sau này vào những năm 78, 79, 80…

Nói đến đây ông giáo ngừng lại, nhìn tôi một chập. Tôi đoán ông cũng thừa biết gia đình tôi đến Mỹ vào năm 79, 80.. Đợt của thuyền chài. Hồi ấy Sở Di Trú và Bộ Ngoại Giao Mỹ gọi chúng tôi là Boat People, nghĩa là những người trốn bỏ chủ nghĩa Cộng sản vượt biên bằng đường biển bằng tàu bè, thử thách và chấp nhận mọi hiểm nghèo. Phải nói tử Boat People có nhiều gợi ý rất đẹp, nhưng không hiểu vì dụng ý gì mà một nhóm người Việt đến Mỹ hồi 75, đã suy diễn nó ra tiếng Việt là “Dân Thuyền Chài Tị Nạn”.

 Ông giáo Đông nói tiếp:

- Những năm về sau này, cùng  lượt với lũ con lai, tụi này nhà trường khiếp sợ, xì ke, ma túy, đánh lộn, găng, băng đảng, mới qua mà thành lập đảng “Cửa Sổ Đen”. Nghe nói các nhóm này mang tước hiệu từ các trại tị nạn nổi danh hung bạo: Lâm Sỉn, Songkhla, Paulapidong, Phi luật Tân….Còn những đợt 1991- 92 toàn là con lai và con cháu nhóm sĩ quan H.O…Bác sï  thấy đó! Hết thuốc chữa!

Tôi thấy nhận định của ông Giáo Đông cũng có phần đúng, nhưng các cháu bị hàm oan cũng nhiều. Với lại khi xét xử con em chúng ta, chúng ta hãy xét xử xã hội vây hãm và gây những ảnh hưởng tai haị và xấu xa cho con em chúng ta. Nhưng tôi biết bây giờ không phải lúc, và cũng không còn là thời điểm thuận lợi để cho tôi kêu gọi sự phán xét công bằng cho các học sinh tị nạn ở các lớp sau này nữa. Tôi chỉ góp ý là thưa với ông giáo Đông, các cháu qua 75, các cháu và gia đình được sửa soạn trước. Các cháu ấy được diễm phúc rất lớn là được sứ quán tâm của nhiều chính phủ và các tòa Đại sứ. Còn con cháu chúng tôi đến sau, vào những năm 78, 79, 80... hay sau đó thì các cháu thiếu chuẩn bị. Các cháu rời bỏ tổ quốc ra đi trong khi cả nước ăn độn, làm sao các cháu ra đi một cách thỏai mái được…

Tôi nhìn xuống cúi lớp, chợt nghĩ đến điều gì, tôi vụt miệng hỏi:

- Trong các anh chị có anh nào tên Trung?

Một cậu nhỏ con, mắt sáng dơ tay đứng lên:

- Thưa Bác sĩ con tên Trung

- Anh là con của Trung tá Đinh?

- Vâng Cha con, Trung Tá Đinh.

- Hai giờ chiều mai tôi muốn gặp anh tại vân phòng tôi. Văn phòng tại cơ quan của tôi, chứ không phải văn phòng tại trường này.

- Thưa Bác sĩ cha con có ý muốn con đến gặp bác sĩ vào ngày thứ năm, vì buổi sáng thứ năm con không có lớp. Thưa bác sĩ, như vậy được không ạ?

- Được, vậy gặp anh lúc 9 giờ sáng tại cơ quan tôi.

Trong lúc tôi trao đổi với Trung, ông giáo Đông bước ra ngòai, học trò trong lớp thì im lặng. Có một vài gương mặt có vẻ vừa ngạc nhiên vừa thích thú. Có lẽ lâu quá từ ngày theo chân cha mẹ lưu lạc đến giờ các cháu không hề được nghe cuộc đối thoại mẫu mực và nghiêm túc như vậy. Các cháu thương nghe nói “tao nói cho tụi bay biết ”nhiều hơn. Tôi cảm thấy xót xa cho con em chúng tôi vô hạn. Là cha mẹ, trên bước đường lưu vong, chúng tôi thường xao lãng, không gần gũi với con em chúng tôi trong việc học hành, vì mãi lo vật lộn với cuộc sống, sợ mất job hơn là sợ mất con.

 

Cách đó ba hôm, tôi đang ngồi làm việc tại cơ quan, anh Đinh gọi điện thoại cho tôi:

- Alô! Alô! Bác sĩ Thể đó phải không? Alô, thưa có phải bác sĩ Thể đó không?

- Vâng, thưa ông.

- Bác sĩ. Tôi là Đinh. Tôi vừa đến Mỹ theo diên sĩ quan H.O.

- Thưa anh, anh là sĩ quan H.O. thuộc đợt mấy, sao anh qua được sớm vậy? 

- Thưa sĩ quan H.O.2. Sở dĩ tôi gọi bác sĩ là tôi có chuyện này:  Tôi đến Mỹ với cả gia đình. Vợ chồng tôi mang theo 4 cháu, hai trai hai gái. Hai cháu gái lớn cả rồi và gần thành gia thất, tôi chỉ còn kẹt hai cháu trai còn nhỏ. Tôi không thông thạo hệ thống học đường ở đây. Tôi nghe nhiều người nói bác sĩ là người am tường về hệ thống giáo dục tại Mỹ. Tôi cũng nghe nói bác sĩ trong những năm qua đã chỉ dạy, giúp đỡ một số con em của đồng bào tị nạn, nhờ thế các cháu ấy vào được những Đại học tốt tại Mỹ. Nói thật với bác sĩ qua 10 năm đi tù cải tạo của Cộng sản, bây giờ đến Mỹ, kiệt quệ rồi. Chán nản quá rồi! Tôi giao trọn hai đứa nhỏ cho bác sĩ, hư nên gì chúng tôi cũng nhớ ơn bác sĩ.

Trong khi nói chuyện điện thoại với anh, tôi nghe có tiếng đàn bà thở dài thườn thượt…     

Anh Đinh vụt nói tiếp: 

 - À! Bác sĩ, bà nhà tôi biết bác sĩ. Năm 72 bác sĩ mổ bướu cổ cho bà nhạc tôi tại bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa, Cần thơ.

- Anh Đinh, anh nói giọng Bắc. Anh là người Bắc cưới vợ Nam?

- Vâng, bà nhà tôi là nữ sinh Trường Đoàn Thị Điểm, Cần thơ. Tôi là dân Albert Sarraut, di cư vào Nam 1954, tôi tiếp tục học ở Chu Văn An Sàigòn.

- Anh Đinh, anh chị cứ gửi hai cháu đến tôi. Anh chị tin đi, không tệ lắm đâu. À, mà này, xin anh cho tôi được phép hôm nào đến thăm anh chị và các cháu. 

Tôi nghe có tiếng ai chép miệng và thở dài. Ngừng một đổi lâu, anh Đinh nói:

- Chắc hai cháu, Trung và thằng em nó, thế nào cũng đến chào bác sĩ. Lúc đó tôi sẽ cho bác sĩ biết hôm nào thuận tiện mời bác sĩ đến thăm chơi. Hiện tại hai cháu đang học tại trường thầy Đông đó bác sĩ… Xin chào bác sĩ.

Tôi cảm thấy mình thiếu tế nhị khi xin phép được đến thăm nhà của một người ti nạn vừa mới đến Mỹ. Ngày xưa tôi cũng vậy, tôi không muốn ai đến thăm nhà tôi, nhìn thấy cảnh bần cùng của gia đình tôi khi vừa đặt chân lên đất Mỹ. 

 

Đúng 9:00 giờ sáng ngày thứ năm, hai anh em Trung và Hùng đến gặp tôi. Trung lễ mễ mang hai chai rượu vang đến:

- Thưa Bác sĩ, Cha mẹ con xin biếu bác sĩ hai chai rượu vang nhân dịp các con đến chào bác sĩ, và xin bác sĩ nhận hai con như con của bác sĩ.

 - Tôi vô cùng cảm ơn ba mẹ của hai anh, và cảm ơn hai anh. Hai anh biết đấy, lễ vật hay quà biếu vẫn là tục lệ xưa và nay khi còn ở trong nước, không ngờ trong cái balô trên bước đường lưu vong cha mẹ anh vẫn còn mang theo tục lệ ấy.

 Sau đó hai cháu trình bày về quá khứ học hành của mình ở trong nước và mấy tháng vừa qua tại Mỹ. Các cháu khác hẳn các cháu trước đã từng qua khóa dạy tại lóp này, nhất là những nhận định rất thực tế của Trung:

- Cha con vào phỏng vấn chương trình H.O. vào năm 1989. Thú thật cha con không mấy nhiệt tình khi đăng ký đi chương trình H.O. Chính cái nghĩa của chữ ‘Humanitarian Operation - Chiến dịch Nhân đạo’ mà làm cha con cảm thấy xốn xan. Mẹ con thì bảo phải đi, nếu đi vì cho mình thì mình còn gạn đục khơi trong, còn đi là vì con thì phải đi ngay thôi. Trễ lắm rồi làm sao cho các con theo kịp được chương trình học hành xứ người. Khi cha con vào phỏng vấn chương trình H.O. năm 1989, nhà trường biết ngay. Lúc đó con học cuối năm lớp 10. Con là học sinh giỏi cửa trường. Con vẫn được thầy thương bạn mến như bấy lâu nay, mặc dầu nhà trường và ai cũng biết cha con là sĩ quan của chế độ cũ, đang đi học tập cải tạo tại miền Bắc. Nhưng khi biết cha con sửa soạn đi Mỹ theo chuong trình H.O. thì thái độ nhà trường đối với tụi con như một đường vạch rõ nét. Họ yêu cầu các con nghỉ để chuẩn bị đi Mỹ với gia đình. Nhưng họ chỉ yêu cầu bằng miệng, không có văn thư chính thức. Các thầy, các cô giáo cũng nói xa nói gần đó chỉ là những yêu cầu chớ chẳng phải là những sắc luật hay nghị quyết chi cho rõ ràng. Tiếp thu từ những ý kiến đó, hai con cứ tiếp tục ngồi lì. Hai đứa con được ngồi lì lâu năm như vậy, thực ra cũng là nhờ các thầy và các cô. Con là nguời học trò giỏi, luôn luôn dẫn đầu lớp: Toán, Việt văn, và Nga Văn. Các thầy và các cô không ai muốn tụi con gián đoạn học hành.  Khi gần hết lớp 12, cuối năm 1991, gia đình con có giấy lên đường đi Mỹ, có ngày giờ và số chuyến bay, lúc đó tụi con nhận đuợc văn thư chính thức của nhà trường yêu cầu nghỉ học để chuẩn bị xuất cảnh với gia đình!

- Hai anh cho tôi biết cảm tưởng của hai anh, khi vào học trường Mỹ trong 3 tháng qua, và dự tính các anh sẽ học những gì, và nhất là Trung, năm tới vào Đại học, anh có những dự định gi? Kế hoạch học hành của anh từ nay đến cuối năm như thế nào?...Tôi chủ yếu là hỏi Trung, nhưng Hùng vụt trả lời:

- Học trò Việt ở Mỹ học như hạch! Cha mẹ tụi nó qua lâu, có đứa cha mẹ qua hồi 75, mà giờ này tụi nó vẫn chui đầu vào mấy cái trường tệ hại này học chung với tụi thiểu số, cũng lạ! Các thầy giáo, các cô giáo Việt không có khả năng gì về sư phạm, nói chuyện với học trò còn hơn công an nói chuyện với tội phạm: “tao nói cho tụi mày biết”. Còn cô giáo nghe nói ở trong nước dạy lớp một lớp hai, qua đây hồi 75 làm công việc lặt vặt ở các hội hè nào đó, rồi cũng được bao cấp vào dạy cấp 3, nói chuyện với học trò như rỗi rao cá, chửi mắng học trò gái như con sen như đứa ở. Nhà trường họ biết hết, họ không thèm nói. Họ kỳ thị ‘sống chết mặc bây’. Có ông giáo Việt dê học trò, dĩ nhiên là học trò Việt, chớ đụng đến tụi Mỹ trắng, tụi Mễ hay tụi Đen nhà trường cạo đầu ngay. Rủi cho ông ta, bị tụi Mỹ lai nổi máu anh hùng nó đánh cho vỡ mặt. Vì có dính dáng tới tụi Mỹ lai, nhà trường kín đáo yêu cầu ông ta nghỉ việc. Mặt ông ấy lại cứ vênh váo lên và cứ bảo là tự ý xin nghỉ vì có job tốt hơn. Vô liêm sĩ thật!

Nói đến đây, vừa thoáng thấy Trung nhìn, biết ý anh mình, Hùng đi đến kết luận:

- Con ráng học hết năm nay, và năm tới nữa. Xong lớp 12, con đăng ký vào Westpoint, đi đánh giặc cho đã đời! Nhìn vóc dáng nhỏ thó của anh mà có tham vọng làm Napoleon của Mỹ, tôi bật cười:

- Tôi rất cảm động khị nghe anh nói anh có ý hiến cho nước Mỹ thân hình một thước năm mươi của anh, với một khối thịt xương không đầy 45 kí, không hiểu với chừng ấy số lượng thịt xương, anh có đủ thỏa mãn tiêu chuẩn yêu cầu của trường Westpoint? 

Lúc ấy, Trung vừa nhìn tôi và nói:

- Cách đây 3 tuần, bạn của ba con là Trung tá Hải, qua Mỹ hồi 75, ông và gia đình ở ngọai ô. Bác Hải đưa xe đến rước ba mẹ con và hai con, đến chơi nhà ông ta ở Buffalo Grove, ngoại ô, phía Tây Bắc của Chicago. Con bác Hải cũng học một cỡ với tụi con. Nhân dịp này, con bác Hải đưa tụi con đi thăm trường cấp 3 của họ ở Buffalo Grove. Phải nói cả một cơ ngơi giáo dục đồ sộ. Mọi thứ đều nề nếp và kỷ luật nghiêm túc. Tụi nó bảo thầy giáo và học trò ở đây phần nhiều là người Do thái và người Da Trắng. Dĩ nhiên cũng có một vài người da đen để chiếu lệ. Con cũng thấy danh sách học sinh xuất sắc hàng tháng, hàng tam cá nguyệt. Cũng có danh sách các cô giáo, các thầy giáo xuất sắc hàng tháng. Học sinh tự ý ghi tên mình vào một đội chuyện môn: Đội Toán, Vật Lý, Xã hội, Bóng Rổ, Bóng chuyền, Bóng đá, Quần vợt, Footbal….Có một đội đặc biệt và lý thú …đó là Đội Biện Luận, Debate Team. Con thấy thằng Sơn con bác Hải, tháng vừa rồi nó là cá nhân xuất sắc của đội đó. Nó cũng được trường nhìn nhận là cá nhân xuất sắc trong năm về bộ môn Debate này. Nó bảo với con cách đó một tháng, nó vác đội Debate của trường nó đi đấu võ mồm với ba trường khác, trường nó thắng to, nó là trưởng toán, nó được cá nhân xuất sắc. 

- Con Trung tá Hải tiếp xúc với các anh họ vui vẻ chứ?

Trung trả lời :

- Con bác Hải rất tử tế và nghiêm túc.

Hùng liền cướp lời anh:

- Họ không có lý do gì mà họ không tử tế đối với tụi con cả. Họ hơn tụi con là 75 cha họ ở Sàigòn chạy được. Còn cha con lúc đó đang đánh với Việt cộng tại Buôn-mê-thuộc…

Một lần nữa, Trung nhìn Hùng với cái nhìn của người anh hiểu được tánh háo thắng của thằng em mình. Trung nói:

- Gia đình bác Hải xưa kia ở Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa với ba mẹ con. Sơn trước 75, có học chung tiểu học với con. Chính Sơn nhắc điều đó. Phải nói Bác Hải là người quân nhân yêu nước. Năm 75 Bác chọn lựa con đường bác đi không phải cho Bác, như bác nói với cha con: “ ‘Toi’ biết đấy, lúc đó thời tụi mình hết rồi. Bỏ tổ quốc ra đi hồi 75, là sự chọn lựa cho con, vì tương lai của con. Ở lại với Cộng Sản, ‘moi’ không sợ biển máu, nhưng ‘moi’ rất sợ Giai Cấp Đấu Tranh của Chuyên Chính Vô Sản ”. Đám con bác Hải 4 người. Tất cả đến Mỹ dưới 10 tuổi, đều ở ngoại ô lúc mới đến từ 75, bây giờ họ vẫn nói tiếng Việt trôi chảy, vẫn giử truyền thống giống nòi, họ không hề thay tên đổi họ. Họ tiếp thu tư tưởng yêu nước của người cha một cách sâu sắc. Họ cũng thường về thăm nước: Sàigòn, Huế, Dalạt…Nói đến đây Trung có chiều suy nghĩ, ngừng một chập anh nói:

- Lúc đến nhà bác Hải thì vui lắm, mở mắt cho tụi con thấy hệ thống giáo dục của Mỹ cừ khôi lắm. Học sinh của Mỹ giỏi đủ mọi môn. Tại trường mỗi học sinh ngồi đối diện một cái Computer từ tiểu học. Khi tốt nghiệp Trung học, mọi học sinh biết sử dụng computer một cách thông thạo. Giáo dục tại Mỹ là sự đầu tư lớn của Chính phủ Mỹ cho tương lai của nước Mỹ… Nhưng khi về nhà cha con buồn. Mẹ con công nhận cảm tình của bác Hải đối với ba con không suy sụp, tình chiến hữu lúc nào cũng cao quí. Nhưng mẹ con than phiền bà Quỳnh, vợ bác Hải, tiếp đãi mẹ con có phần lạnh nhạt. Mẹ con bảo: Cũng tại ông mê đánh giặc, ở tù cộng sản cho đã, rồi mới tới Mỹ. Đến Mỹ chậm chân hơn người ta, nghèo khó quá mà, cho nên người ta mới lạnh nhạt khi dễ tôi như vậy. Chớ ‘con’ Quỳnh nó có hơn tôi cái gì đâu? Nó chỉ hơn tôi là ở chỗ chồng nó khôn hơn chồng tôi Rồi mẹ con khóc. Ba con im lặng. Theo sự nhận xét của con, bác Quỳnh cũng rất tế nhị, bà sợ mẹ con hiểu lầm, cho nên bà cũng thận trọng lắm. Bác Quỳnh rất ân cần với mẹ con, một điều thưa chị hai điều xưng em. Có lẽ tại mẹ con thương tụi con quá đó thôi. Vì trên đường về ngồi trên xe thằng Hùng em con nó cứ than phiền là đến Mỹ sau người ta hơn cả chục năm, phải ngồi học ở cái trường, thầy chẳng ra thầy, trò chẳng ra trò, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi. Và hơn nữa đàn bà với đàn bà không đôn giản. Con thấy mấy tuần rồi cha con ngồi một mình, suy nghĩ và hút thuốc lá hơi nhiều, con cố gần gũi ba con, ba con hay gắt gỏng. Nói đến đây, mắt Trung hơi buồn, anh ấy cúi mặt nhìn mũi giầy. Thấy vậy, tôi liền đưa ra chương trình để giúp Trung và Hùng học thêm Anh ngữ. Tôi đưa hai anh ấy đi thăm các phòng thính thị Anh ngữ mà riêng tôi dùng để dạy anh ngữ trong mấy năm qua cho các học sinh Việt, Miên, Lào và Trung Hoa mới qua Mỹ. Hai anh thích thú khi thấy cơ sở dạy Anh ngữ của tôi. Hai anh chào tôi ra về. Ra đến cửa, Trung ngỏ lời cám ơn tôi còn Hùng thì bảo được nói chuyện với tôi thật bổ ích, và anh ấy cảm thấy rất thích thú. Chợt Trung nói:

 - Thưa bác sĩ, hôm nay thứ năm 28 Tây, ba mẹ con xin mời bác sĩ đến nhà con vào ngày thứ sáu, 28 tây tháng tới lúc 3 giờ chiều!

- Cám ơn anh, về thưa với ba mẹ là tôi sẽ đến .

Sau khi đưa Trung và Hùng về tôi rất ngạc nhiên cái hẹn của Trung Tá  Đinh: Cái hẹn một tháng, lúc 3 giờ chiều ngày thứ sáu. Một cái hẹn rất tiêu cực, hình như có ý bảo mình đừng đến. Nhưng tôi lại nghĩ nếu quả thật như vậy thì việc đến thăm Trung Tá ñinh là điều cần thiết cho tôi phải đến. Tôi sực nhớ câu Trung nói: “Rồi mẹ con khóc! Ba con im lặng…Ba con nhiều lúc ngồi hút thuốc lá và suy nghĩ một mình! ”. Tôi vụt đứng dậy đến soi mặt mình trong kiến cố tìm lại nét mặt thiểu não của tôi 12 năm về trước, khi mới đến Mỹ, biết bao là oan khiên vây bủa. Từ sự phản trắc của người thân thương, đến sự phụ bạc của người đời, nguy hiểm hơn nữa là sự chụp mũ của bọn đâm thuê chém mướn, bọn Vietnam mafia.

 

Tôi đến thăm anh Đinh lúc 3 giờ chiều, vào đúng ngày giờ đã hẹn. Trước đó ba hôm tôi có nhắc với Trung và Hùng sau buổi học anh ngữ với tôi.  Tôi cũng nhắc qua loa thôi. Sợ anh chị hiểu lầm là mình quan trọng hóa việc đến thăm của mình. Tôi cầm theo hai chai rượu vang mà anh chị ấy cho cách đây một tháng. Không phải đem trả lại, mà đem theo với dự ý để khui cùng uống với anh chị trong trong buổi gặp nhau lần đầu. Từ ngoài đường bước vào chung cư cao ốc của anh chị Đinh ở, chỉ mươi mười lăm bước, phần thì bị tuyết khô dập vào mặt rát và lạnh, phần thì mang theo hai chai rượu vang và đường trơn trượt, tôi bị gió rét xô ngả mấy lần. Cuối cùng tôi cũng với được cái nắm cửa vào cao ốc. Tôi vội bước vào bên trong tìm phòng số 2C. Tôi bấm chuông an toàn phòng 2C đợi mãi không ai mở cửa. Tôi thấy cửa lên lầu 2 bỏ ngỏ, tôi đẩy mạnh, cánh cửa mở tung ra. Tôi bước vào, mùi hôi thối ẩm mốc bốc lên tận mũi. Tìm được phòng 2C, tôi đưa tay định bấm chuông, tôi suýt dẫm phải bãi cứt của ai vừa mới ỉa còn bốc hơi. Lúc đó tôi nghe tiếng chân ai nặng nề bước vội lên lầu 3, có tiếng chìa khóa trao ổ khóa, có tiếng mở cửa vội vàng. Một tình cảm dâng lên ở tôi một cách bất ngờ. Tôi thưong anh chị Định vô hạn. Tôi thương các anh em sĩ quan H.O vừa đến Mỹ. Tôi xót xa vô cùng cho cộng đồng Việt Nam tị nạn, cho những ai được chỉ định định cư tại vùng này trong chiều dài 17 năm qua. Khi mới đến vùng này ai cũng vậy, ai cũng bị nhét cả gia đỉnh vào một phòng hôi hám, tối tâm, chật chội, vợ chồng con cái cựa quẫy trong một không gian nhỏ bé đến độ vô luân. Sau này những năm 80, 90 có nhiều anh em đến, có người đã từng kinh qua những nhà tù Cộng sản như khám lớn Chí hòa, khi gặp tôi họ đều phải la lên: tất cả vợ chồng con cái bị nhét vào một gian nhà tâm tối ngột ngạt khó thở, thiếu vệ sinh, chuột bọ và gián mối bò lổn ngổn, trông vào hố xí cầu tiêu bẩn thỉu, xám xịt nhơ nhớp, còn tệ hơn cả khám lớn Chí hòa dưới thời cộng sản. Chúng ta đã trả một giá rất đắc cho hai chữ tự do. Tôi cũng phải thú thật với các anh em chữ Tự Do chính bản thân của nó không mang một giá trị gì hết ngoài nghĩa Tự do. Tự do chỉ có giá trị khi nào chúng ta phấn đấu mới có được nó; còn Tự do chúng ta có là do sự bố thí và lòng từ tâm của người khác, thì xin anh em cũng như tôi đừng có đòi hỏi nhiều lắm…Tôi lấy hết can đảm và thận trọng, đứng chàng hảng trên bãi cứt, với tay gõ nhẹ cánh cửa. Không có tiếng trả lời. Tôi gõ cửa lần thứ hai, nghe có tiếng chít răng, và tiếng chân bước nhẹ đến mở cửa. Cánh cửa vừa hé mở, tôi vội xô cánh cửa bước vào, tôi dùng tay phải ẩn sau lưng, tôi đóng sấm cánh cửa trước sự ngạc nhiên gần như kinh hải của chị Tiêu Phương vợ anh Đinh. Tôi nói lớn:

- Thưa chị tôi là Thể, thầy dạy kèm hai cháu con của anh chị đây.

- Ông là thầy dạy kèm hai đứa nhỏ con chúng tôi?

- Vâng, thưa chị Đinh.

- À! Tôi nhớ ra rồi. Ông là bác sĩ Thể! Bác sĩ Đào Trọng Thể tại bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa , Cần Thơ. Vừa nhìn ra được tôi, chị Tiêu Phương vô cùng mừng rỡ, nhưng khi chị biết tôi có hẹn cách đây một tháng, đến thăm anh chị chiều nay thì chị có vẻ thất vọng và buồn ra mặt. Tôi hiểu được ý chị, tôi nói:

- Thưa chị gia đình anh chị là gia đình anh em H.O thứ mấy mươi mà tôi đã đến thăm.

- Vâng, thưa Bác sĩ mới qua ai cũng khốn đốn cả.

- Thưa chị, anh chị qua lúc này còn đỡ hơn, gia đình tôi đến vùng này hồi năm 79, lúc ấy nhà cửa và an ninh ở vùng này còn tệ hại hơn bây giò gấp mấy mươi lần. Chị thử nghĩ lúc ấy vùng này dân chúng còn gọi là ‘vùng ma quái’- ghost area !

- Dễ sợ!

Sau tiếng ‘dễ sợ’ tôi thấy chị Tiêu Phương nín thinh và chị có vẻ khiếp sợ thật. Tôi có ý dò xem có anh Đinh ở nhà không? Không lẽ anh ấy lại quên. Hình như đọc được ý nghĩ của tôi, chị Tiêu Phương nói:

- Ông nhà tôi và tôi nãy giờ, ngồi nói chuyện ở đây. Nhưng ngồi lâu ông nhà tôi hay mệt và nhức đầu. Anh ấy mới vào trong phòng nghỉ một tí. Xin bác sĩ ngồi chơi, tôi vào trong gọi ông ấy. Nói xong, chi vừa đi vào phòng vừa kêu lớn:

- Anh à! Có bác sĩ Thể lại, rán ra ngồi chơi với anh ấy một tí!

Tôi vẫn thấy im lặng, không một động tĩnh! Tôi thấy chị Tiêu Phương trở ra và nói với tôi:

- Bác sĩ ngồi chơi một tí, ông nhà tôi ra ngay bây giờ.

Trong lúc chờ đợi anh Đinh, mắt tôi quen với bóng tối của căn phòng, lúc bây giờ tôi vô tình sờ soạn cái ghế salon tôi đang ngồi. Chợt tôi nghe chi Đinh nói:

- Bộ salon này người ta xài lâu, cũ, gẫy chân, bị chó gậm nát mấy lớp da, cho nên người ta mới đem bỏ chỗ đổ rát. Mấy đứa nhỏ và anh Đinh thấy còn tốt, ba cha con mới ì ạch khiêng về xài mấy tháng nay...Xem chừng chị đang còn muốn nói gì thêm nữa, tôi không biết làm sao mà ngưng chị lại được. Cũng may lúc đó anh Đinh từ phòng ngủ bước ra. Anh mặc bộ byjama màu xám, choàng bên ngoài một áo mùa đông cũ, lỗ chỗ những đốm, từ màu xám ngã thành màu nâu trông thật là hãm tài, tay anh đang kẹp một điếu thuốc cháy dở. Tôi liền đứng dậy nghiêm túc bắt tay anh.

- Xin chào mừng Trung tá.

- Cha! Sao bác sĩ sang thế? Bác sĩ chào tôi là Trung tá! Cái chức Trung tá của tôi ‘tụi nó’ quên từ lâu rồí, nhất là từ ngày đến Mỹ. Những người Mỹ ở hội bảo trợ luôn luôn bảo tôi nên quên cái quá khứ của mình đi, mà lo xây dựng một con người mới để hội nhập xã hội mới văn minh và tiến bộ hơn…Còn cái xã hội cũ Sàigòn của mình thì tính thế nào bây giờ đây bác sĩ nhỉ? Làm sao mà gìn giữ nó chớ, nó có một giá trị lịch sử, dù nhơ nhớp hay thanh cao, nó cũng có giá trị lịch sử riêng của nó. Nó đã được báo chí Sàigòn ta và tòa Nhà Trắng Mỹ, một thời xác nhận với thế giới cái “Thủ đô Sàigòn đô la đỏ ”này. Nói đến đây anh ngã ngửa ra cười ngặt ngoẹo. Hình ảnh của anh làm tôi nhớ lại câu nói của một đồng nghiệp người Mỹ gốc Phi châu, anh là một cán bộ xã hội và cũng là cụu chiến binh Mỹ tại Việt Nam. Anh ấy bảo với tôi “Người Á châu họ cười khi họ bị nervous gương mặt họ lúc đó trông thật khủng khiếp! ”. Anh Định xem chừng đang phẫn nộ. Anh tiếp tục nói:

 - Không cần họ phải nhắc mình như vậy phải không anh? Mình phải tự biết điều chứ! Mình phải biết quên mình chứ, quên cái con ngưới quá khứ của mình, nhất là cái quá khứ của một Trung tá Ngụy quân! Có thơm tho gì đâu mà ôm bám lấy nó. Nhưng thú thật khi nghe người ta nhắc nhở như vậy mình cũng cảm thấy bị xúc phạm! Tại sao tôi phải quên cái quá khứ của tôi? Quá khứ của tôi tốt đẹp, cao quí và anh dũng lắm chứ! Tôi là một người lính yêu nước. Tôi không bỏ chạy dưới áp lực của thằng cộng sản. Không có kẻ nào có đủ quyền năng bắt chúng ta phải đánh mất bản ngã của chúng ta cả.. Nói đến đây anh lấy tay đập mạnh xuống bàn làm tung toé cả bình trà và ba cốc nước trà. Anh đứng phắt dậy trong cơn kích động tâm thần mãnh liệt. Tôi không thể nào biết trước anh sẽ làm gì. Tôi liền đứng dậy, ôm anh thật chặc vào lòng và ghì anh ngồi xuống. Chúng tôi ôm nhau. Tôi nghe tiếng nấc truyền sang từ lồng ngực anh. Chúng tôi thương nhau vô hạn…

Chị Tiêu Phương buồn, chị nói:

- Hơn 2 tháng rồi đấy bác sĩ, ông nhà tôi lúc nào cũng ngồi trong bóng tối, hút thuốc lá một mình! Nhiều lúc nửa đêm mê sảng, ông nhà tôi quát tháo ấm ỉ, đá tung chăn mền rồi ngồi dậy, mắt thao láo nhìn vào bóng đêm. Ông than nhức đầu, không tài nào ngủ lại được. Sức khoẻ, tinh thần càng ngày càng sa sút. Hôm nay được bác sĩ đến thăm, tôi mừng có người hiểu được anh, anh ấy mới nói ra, mới thố lộ tình cảm. Nói tới đây chị khóc. Tôi vừa ôm vai anh Đinh ,vừa đỡ lời chị:

 - Anh Đinh có nhiều may mắn hơn người khác. Như anh biết đấy, anh có người vợ tuyệt vời lúc nào cũng chia sẻ với chồng, gần gũi và nâng đỡ nhau…

Anh Đinh thều thào:

- Cám ơn Anh, bà nhà tôi chân chất, tôi may mắn thật!

Tôi và anh Đinh hai người cùng đứng dậy sửa soạn lại khay trà, và mấy cái chén uống trà. Anh Đinh nói:

- May quá không có cái nào chịu vỡ cả. Anh biết, đây là bộ chén trà Ngũ Hành Sơn đó anh. Tôi đem từ bên nhà qua. Anh thấy, nó không được mỹ thuật lắm, nếu không muốn nói nó còn thô sơ lắm phải không anh? Nhưng tôi thích, vì nó thuộc đợt sản xuất đầu tiên đó anh.  Nó có tính chất lịch sử, đánh dấu ngày phát khởi ngành công nghệ làm chén trà của ta. Nghe tới đây tôi cảm thấy  anh Đinh còn nhiều gắng bó với tổ quốc hơn tôi.

Nhìn thấy hai chai rượu vang tôi đang dấu dưới cạnh chân, anh Đinh liền hỏi:

- Sao lôi thôi vậy? Bác sỹ đem trả lại đấy à?

- Tôi mang lại, để khui cùng anh chị uống cho vui.

- À, có thế chớ, lẽ nào mà anh trả lại.

 Đoạn anh gọi:

- Bà ơi!..Rồi anh cười ngất, bây giờ chỉ còn bà với ông. Không biết mình già từ thuở nào. Không còn chú ý đến ngày tháng, râu tóc dài che kín mặt, có lúc tàng quên cả tên mình.

- Có thế lắm đấy. Anh có thể quên tên anh đôi lúc, nhưng anh khó mà quên được tên chị, phải không anh?

- Anh bảo sao? A.a..a... bác sĩ chẩn đóan đứng thế thì thôi!..

Cả hai chúng tôi cùng cười. Chị Tiêu Phương xuất hiện từ nhà bếp ra bất ngờ. Chị vui vẻ khác thường, chị nói:

- Mời bác sĩ ở lại ăn cơm tối với vợ chồng tôi, một bữa cơm cuối năm, mặc dầu chỉ là cơm dưa muối.

    Rồi chị lườm anh Định một cách âu yếm, chị nói trong giọng ngậm ngùi:

- Gớm! Hơn mấy tháng nay, mới thấy ‘ông ấy’ vui nhộn được một bữa!

 

Lúc đó Trung cũng vừa bước vào nhà, miệng anh há ra như muốn nói điều gì, chợt thấy tôi anh ấy chào, rồi đi thẳng vào trong phòng tắm. Liền sau đó có tiếng quát tháo của Hùng đằng trước cửa, cậu ấy đòi kêu cảnh sát:

- Phải làm một lần cho nó sợ chứ, cứ ỉa trước nhà hoài gớm bỏ mẹ.

Lúc đó Trung cũng vừa chạy ra với dụng cụ sẳn trên tay để tẩy uế. Trung mở cửa lấy ngón tay trỏ che miệng ra dấu đừng nói nữa, nhà đang có khách. Hùng bước vào, thấy tôi anh ấy chào, nhưng coi bộ còn giận, anh lẩm bẩm một mình:

- Anh Trung chờ em, làm một mình không được đâu, coi bộ nó ỉa cũng lâu, cũng hai ba tiếng đồng hồ rồi…

Thoáng một cái chị Tiêu Phương nhìn tôi. Tôi biết chị vừa phát hiện một điều gì về cái lối tôi đóng cửa sầm một cái sau lưng tôi khi tôi vừa bước vào gặp chị. Tôi liền quay mặt đi chỗ khác. Lùc ấy tôi cảm thấy lạ đến độ ngạc nhiên anh Định không có vẻ gì giận dữ. Anh từ tốn nói:

- Cái lão ấy già, làm lao công trong một tiệm cách đây 5 blocks từ 8 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Mùa hè không sao, mùa đông khi đi bộ về hôm nào lạnh quá như hôm nay chẳng hạn, khi gần đến nhà ruột và bàng quang bóp vì lạnh quá, nhiều lúc vô nhà không kịp ông ta ‘tè’ bậy bạ. Nhưng ông ta cũng tội nghiệp biết xấu hổ, vợ ông ta thường đại diện xuống xin lỗi và cũng tự tay bà làm công tác vệ sinh. Hôm nay có lẽ bà đi đâu vắng cho nên mới chậm trễ như vậy. Xin lỗi làm phiền bác sĩ quá.

Tôi chưa kịp nói gì, thì anh Đinh tiếp:

- À, anh Thể, ông ta là người Cuba đấy. Nghe nói ngày xửa ngày xưa, cha của ông ta cũng là cận thần của Batista!

Tôi liền đỡ lời:

- Như vậy, ông ấy với chúng ta “cùng một lứa bên trời lận đận”..

Anh chị và tôi cùng cười.

 

Ngồi dùng bữa ăn tối với anh chị Đinh với hai cháu tôi thấy thích thú vô cùng. Anh Đinh vừa làm cạn cốc rượu vang thứ hai và anh thưởng thức đến giọt cuối cùng. Tôi muốn lợi dụng cái tinh thần hứng khới của anh Đinh mà nói đến những vấn đề xa xôi một tí, lâu rồi tôi định nói nhưng không có được cơ hội thuận tiện như hôm nay. Tôi nặn óc mãi, không biết mở đầu câu chuyện ra sao. Tôi đánh bạo nói:

- Thưa anh chị, hầu như chỉ có anh chị mới hiểu biết về hoàn cảnh của mình đến Mỹ thuộc diện ‘từ thiện’! Đồng thời anh chị hiểu được con em mình. Các cháu muốn gì? Các cháu lo lắng về điều gì? Ta có thể giúp đỡ con em của chúng ta đến mức độ nào? Cho nên anh chị tìm thầy cho các cháu, gặp tôi và cho tôi đến thăm anh chị. Chứ những người khác như anh chị biết đấy, một lần muốn đến thăm gia đình anh em, nhất là anh em sĩ quan H.O. là tôi chạm trán với những câu hỏi hốc búa cũng như sự từ chối phủ phàng: “Có chuyện gì mà ông bày đặt viếng nhà tôi? Ông bỏ nghề bác sĩ rồi nhỉ! Ông là công thần Mĩ…đến thăm gia đình tôi phải không? Chớ hà cớ gì mà ông phải đến viếng gia?..”.  Nhưng anh chị cũng biết tôi không phải là gì cả, cũng lại càng không phải công thần của Mỹ. Tôi chỉ có một tội lớn là có rất nhiều tham vọng trong việc đầu tư vào việc học hành con em của chúng ta. Cho nên với sự thành tâm của tôi, cuối cùng anh em cũng phải mở cửa cho tôi vào. Tôi nói với anh em về những khó khăn của con em chúng ta về học hành khi các cháu đến xứ người. Những khó khăn của con em chúng ta trong việc học hành, không phải thuần túy ở chỡ chữ nghĩa không đâu, nó còn là sự va chạm về văn hóa, về kinh tế, về những tương quan giữa xã hội với xã hội. Con em của chúng ta cũng có những thao thức những trăn trỡ riêng của họ…Nhờ sự thông cảm của các anh em sau này mà tôi mời được một số anh em tham gia tổ chức Hội Cha Mẹ Học Sinh. Những anh em này xem như những thành viên nồng cốt xây dựng phong trào đầu tiên. Sự thật chương trình này là của chính phủ liên bang đưa ra từ Boston. Họ biết tôi, làm việc cho các trường và dạy bổ túc cho các cháu, cho nên họ yêu cầu tôi làm cố vấn và thành lập hội; Hội Cha Mẹ Học Sinh (HCMHS). Hiện nay tôi có được một số anh em tham gia rồì, nhưng tôi muốn mời anh, tôi vừa nói vừa nhìn chị Tiêu Phương, và xin phép chị, cho tôi mời anh ra làm Chủ tịch cho chuơng trình này. 

Chị Tiêu Phương rất thực tế, chị hỏi liền: 

- Có lương không bác sĩ?

- Thưa chị chắc chắn là không lương. Đây là việc ăn cơm nhà vác ngà voi. Nhưng tôi muốn mời anh tham gia, để cho anh có cơ hội tiếp xúc với anh em, với người Mỹ. Ngồi nhà hút thuốc lá càng ngày càng thêm buồn, rồi làm sao tương lai có thể tồn tại với họ được. Thưa chị có đi lại mới thấy khó khăn, có đương đầu với khó khăn ta phải khắc phục khó khăn, dần thành quen, khi ấy khó khăn không còn là khó khăn nữa…

Tất cả mọi người trong mâm cơm đều nín lặng và suy nghĩ. Chợt Trung vừa gát đũa vừa đứng dậy, anh ấy nói:

- Thưa Ba, đây là cơ hội hiếm có, ba nên tham gia để có dịp ra ngòai, đóng góp với cộng đồng, tiếp xúc với người Mỹ cho quen để sau  này Ba còn làm việc với họ.

Sau một chập suy nghĩ, anh Đinh nhìn chị Tiêu Phương, và chị cũng nhìn anh một cách phụng phịu. Anh Định nói:

- Tôi muốn: “ngỏ ý với Bà”…anh cười…theo lời đề nghị của bác sĩ Thể và theo yêu cầu của các con, xin bà chấp nhận hy sinh cho phép tôi làm việc không lương chớ?...Nói xong anh ngã ngửa ra cười, anh nói tiếp:

- Vâng trăm sự nhờ anh, mở cho tôi cánh cửa để cho tôi ra ngoài tiếp xúc với đời với thiên hạ.

Được anh Định nhận lời, tôi mừng khôn xiết! Tối hôm ấy tôi về nhà muộn. Vợ tôi mở cửa cho tôi vào. Bà hỏi:

- Sao anh về muộn vậy? Anh quên hôm nay là ba mươi Tết sao anh?

Khi nhìn lên tờ thấy hôm nay đúng là ba mươi Tết, tôi chỉ cuối đầu xin lỗi vợ...

 

Sau khi nhận chức chủ tịch Hội Phụ Huynh Học Sinh anh Định thật sự xoắn tay áo lao vào công tác. Anh làm việc rất nhiệt tình. Chẳng thế thôi anh còn kêu gọi các bạn đồng ngũ đồng niên tham gia phong trào. Anh tổ chức buổi ra mắt của Hội, với sự gặp gỡ hơn 200 gia đình có con em còn đang theo đuổi học hành. Chưa bao giờ có ai tại vùng này lại có thể tổ chức được một buổi meeting có bề thế như vậy. Nhất là một meeting nói về: “CON EM CHÚNG TA VÀ MÔI TRƯỜNG CỦA MỘT NỀN VĂN HÓA ĐA DẠNG ”, một đề tài khô khan, chẳng những người ta không muốn nghe, mà người ta còn chạy trốn nữa là khác. Ấy thế mà anh vẫn thành công to, trước sự ngỡ ngàng cũng như thán phục của bằng hữu, của những người có nhiệt tình với tương lai của cộng đồng. Hôm ấy tôi nghe say sưa và vô cùng kiêu hãnh về bài tham luận của anh đọc trước hơn 300 quan khách.  Anh bày tỏ quan điểm của Hội: “Bên cạnh những lý do chính trị, tại sao chúng ta bỏ nước chúng ta đi, còn có một lý do chính đáng, đó là vì sự học hành của con em chúng ta. Chúng ta muốn con em chúng ta hưởng một nền học vấn tự do và tiến bộ. Nhưng khi đến nước người có mấy ai còn bảo vệ niềm tin yêu sâu sắc đó? Con em của chúng ta, những đứa con vô cùng thương yêu của tổ quốc Việt Nam, trên đường theo cha mẹ lưu vong, đáng lẽ phải được những bàn tay nhung gấm nâng niu ân cần bảo vệ, họ bị lãng quên! Ở xứ người, con em chúng ta bị phó thác cho những trắc trở trên đường phố, những tai biến hiểm nghèo ngoài xã hội, những rủi ro tại học đường! Chúng ta quên mất điều quan trọng: tương lai cộng đồng chúng ta tùy thuộc vào con em chúng ta. Tương lai của con em chúng ta tùy thuộc vào sự học hành của họ! Bây giờ không phải là muộn để chúng ta trở về với con em của chúng ta, gần gũi, châm bón, bồi dưỡng sự học hành của con em chúng ta!...”

 

Nghe bài tham luận của anh Đinh, tôi có cảm tưởng đó là những điều chiêm nghiệm của anh qua những năm tháng trong những trại tù cải tạo của Cộng sản tại Yên bái, Hòang Liên Sơn, Bắc thái, Vĩnh phú, Lý bá Sơ…Những chiêm nghiệm của anh về thân phận mình, con em mình, của cộng đồng, khi anh ngồi trong vây hãm của bóng tối thê thảm, trong căn phòng hôi hám của anh kể từ ngày anh đến Mỹ. Sống trong những điều kiện bi thương như vậy anh vẫn không ngừng suy nghĩ về tương lai của gia đình và tổ quốc cũng như của cộng đồng. Anh phải là người anh dũng lắm!

 

Từ lúc được anh Đinh kề vai gánh vác chức năng Chû tÎch của hội, tôi hoàn toàn phó thác cho anh và các anh em trong hội đồng cố vấn, lo việc phát triển phong trào. Vị trí Chủ tịch Hội đồng Cố vấn không còn giá trị trên thực tế nữa. Tôi xin từ nhiệm. Sự liên hệ giữa tôi và anh chị Định cũng như các anh em trong tổ chức vì thế cũng thưa dần. Hai cháu Trung và Hùng trong mấy năm qua đều lần lượt vào Đại học lớn như anh chị và hai cháu hằng mơ ước. Có điều là Hùng tự ý từ bỏ giấc mộng làm Napoléon của Mỹ. Anh ấy đang theo đuổi nghề Dược, tại trường Dược nổi danh thuộc Viện Đại Học Iowa. Tuy vậy trong mấy năm qua tôi cũng lắng nghe cộng đồng nói về anh Định. Quần chúng thật sự thán phục anh, nhất là anh biết cách gây quĩ, hướng dẫn phát triển phong trào. Những phụ huynh học sinh trong vùng có ý thức trách nhiệm về sự học hành của con em mình nhiều hơn. Nghe nói anh Đinh có job. Anh trở nên người tích cực trong mọi hoạt động của cộng đồng. Anh đã đổi địa chỉ và anh cũng gọi cho tôi biết địa chỉ và số điện thoại mới của anh. Có lần tôi gặp ông Lê Như, nguyên là Đại tá Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, tôi có hỏi thăm ông ấy về anh Đinh vì theo tôi biết ông ta và anh Đinh là chỗ thân tình như thầy trò. Đại tá Lê Như nói:

- Thằng Đinh, tôi vừa đưa nó vào làm chung một sở với tôi gần một năm nay. Nó tìm việc nơi nào cũng bị chê. Nó buồn lắm. Nó còn lý tưởng quá. Bác sĩ cũng biết cái job của tôi trên danh thiếp nghe ngon lắm. Job của City mà! Người làm phải được tin cậy về chính trị. Những sĩ quan H.O là lý tưởng cho job đó nhất. Nhưng thực sư đó chỉ là lao công chùi nhà, hố xí cầu tiêu, chăm sóc sạch sẻ vệ sinh trong các cao ốc, trong các cơ quan của City. Lúc đầu nó cũng nãn lắm vì mới bắt đầu nó phải được thử lửa, làm xuất 3, từ 12 giờ khuya đến 8 giờ sáng mà lương thì chỉ có 5 đồng 20 xu một giờ, cao hơn minimum wage vào khỏang 90 xu, nhưng có được bảo hiểm sức khỏe cho cả gia đình rất tốt. Nhưng dù sao đi nữa, cuối tháng lương đem về không đủ để trả tiến nhà và tiền ăn. Nó nhờ hai con gái có phước, lấy được chồng làm kỹ sư, bù đấp tí đỉnh. Mà anh cũng biết thằng Đinh nó khẳng khái lắm. Những năm 60, nó là tiểu đoàn trưởng thuộc cấp cũ của tôi. Nó nắm tiểu đoàn mẫu mực lắm. Lính của nó thương nó. Thằng đó sạch! Cách đây sáu tháng nó được chuyển sang xuất một, làm từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Tối về nó còn làm thêm, chạy giao hàng thức ăn cho các tiệm pizza kiếm thêm tí đỉnh nhờ tiền thù lao thực khách họ cho. Ban đầu nó còn ngượng, nhưng rốt rồi cũng quen. Mấy năm trước, bác sĩ biết, tôi cũng vậy, thôi thì cũng đành, “cánh hoa rụng chọn gì đất sạch”!

 

Rồi cách đây mấy năm, vào một buổi sáng thứ Hai, tôi đang ngồi làm việc tại văn phòng, bác sĩ Minh Châu, bậc đàn anh của  tôi, nguyên Cục phó Cục Quân Y Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa trước 75, gọi điện thoại cho tôi:

- Thể, ‘toi’ có hay biết gì không?

Tôi chưa kịp trả lời, anh ấy nói tiếp:

- Chắc là ‘toi’ không hay biết gì rồi! Thằng Đinh bị một thằng Mỹ đen bắn vào nửa khuya đêm thứ bảy vừa qua khi nó chạy giao hàng pizza trên đường Clark!

- Thưa anh! Anh nói thằng Đinh nào?

- Trung tá Đinh đấy, bạn của ‘toi’, bị thằng Mỹ da đen kè nòng súng chạm da, đúng vào  pointe du Coeur mà nó nổ!

- Thưa anh, vậy xác của Trung tá Đinh đang ở nhà quàn nào?

Tôi nghe bác sĩ Minh Châu cười lớn trong điện thoại:

- Nó đâu có chết, xe cứu thương chở nó vào bịnh viện lúc hai giờ khuya. Nó khai nó chỉ bị bắn có một phát. Nó sợ quá! Nó la lớn: I am refugee! No dollars!  Rồi nó ngã đùng một cái thằng Mỹ đen đâm hoảng bỏ chạy...Thằng Đinh nó chỉ cho bác sĩ thấy lỗ đạn vào ở ngực trái và lỗ đạn ra ở chệch ngoài sau lưng vai trái. Nhưng thằng bác sĩ Mỹ không tin, nó bảo thằng Đinh bị bắn ít nhất là hai phát. Nó mang thằng Đinh đi chụp quang tuyến X khắp thân thể, lồng ngực và ổ bụng. Nó không tìm thấy viên đạn cũng không tìm thấy dấu hiệu lủng tạng rỗng hay tim phổi. Nó đành giử thằng Đinh lại vài ngày để theo dõi. Hôm qua ‘moi’ vào thăm nó, thấy nó vẫn khỏe, nhưng nó có vẻ khiếp. Nó bảo sợ quá, nhắc lại như cơn ác mộng....À Thể, nó có nhắc ‘toi’, nhớ đến thăm nó. Chắc nó còn trong viện. Nhớ đi nghe Thể!..

Tôi cám ơn bác sĩ Minh Châu. Dĩ nhiên là tôi phải đến thăm anh Đinh. Hơn ai hết, tôi là người chịu trách nhiệm trước thảm họa của anh Đinh. Chính tôi là người kéo anh ra khỏi bóng tối trầm cảm, thúc đẩy hội nhập vào xã hội Mỹ, từ bỏ cảnh đứng khoan tay bên lề cưộc đời, từ bỏ thái độ tiêu cực, hãy vũ trang cho mình một ý chí mới, ý chí sống còn trong vinh dự trên đất Mỹ. Anh  ấy đã thể hiện và đã thành công. Tôi kiêu hãnh vô cùng. Nhưng tai biến đã đến với anh, tôi cảm thấy mình hụt hẵn, chới với…

 

Tôi đến thăm anh Đinh tôi gặp ngay nụ cười rạng rỡ trên mặt chị Tiêu Phương. Nụ cười lạc quan của chị làm cho tôi vơi được những lỗi lo lắng. Vưa nhìn thấy tôi, Anh Định lên tiếng:

- Sao đến muộn vậy? Ông tưởng tôi đi “Đức” rồi phải không? Nghe bác sĩ Minh Châu nói là ông  muốn biết “xác của Trung tá định đang ở nhà quàn nào ?”. Phải không? Sao bi quan thế? Đâu có dễ chết như vậy được. Tôi còn nặng nợ với đời, nhất là với vợ tôi! Rồi anh ấy nhìn chị Tiêu Phương và hỏi:

- Phải không em?

Tất cả chúng tôi cùng cười! Chị Tiêu Phương nhắc lại chuyện xưa:

- Ông nhà tôi gặp được bác sĩ như lân gặp pháo. Kề từ ngày gặp được bác sĩ, anh ấy vui vẻ yêu đời. Chắc bác sĩ còn nhớ năm nào bác sĩ lần đầu tiên đến thăm chúng tôi và ở lại ăn cơm tối cuối năm với vợ chồng tôi, bác sĩ đã làm thay đổi anh Đinh. Anh Đinh vui vẻ, hăng say yêu đời kể từ hôm đó gặp bác sĩ.

Vợ chồng anh Đinh và tôi nói chuyện huyên thiên về mấy năm không gặp nhau, công ăn việc làm và về con cái. Chúng tôi cũng nói đến những thăng trầm trong đời sống cũng như nói về những người bạn còn ở lại bên kia, những kẻ thao thức bên này, những tai biến có thể xẩy đến trên thân phận những người yêu nước lưu vong…Sau một chập, tôi buột miệng nói:

- Anh chị phi thường hơn chúng tôi nhiều.

- Chúng tôi mà phi thường hơn anh à? Nói dốc tổ! Thôi bỏ đi! Đừng tưng bốc nhau mãi, mỏi tay lắm! Này bác sĩ, mai nó cho tôi xuất viện, liệu tuần tới tôi đi chùi nhà được chưa? 

Tôi bắt tay anh ấy và xin phép ra về, và vừa trả lời anh ấy:

- Chỉ có chị mới hiểu được anh, xin anh tham khảo ý kiến của chị.

Tôi rời khỏi phòng còn nghe tiếng cười của chị Tiêu Phương. 

 

Sau này, về dài về lâu, anh Đinh cũng chịu ảnh hưởng của tai biến trên không ít thì nhiều về phương diện tâm thần. Anh thường đến gặp tôi để tư vấn cũng như để vấn an tâm thần. Anh thường lên cơn hoảng hốt lo sợ chết đột ngột. Người Mỹ gọi là ‘panic attack’. Tôi giới thiệu anh đến đồng nghiệp, một giáo sư tâm thần người Mỹ. Qua mấy năm điều trị coi như anh đã bớt rất nhiều, gần như là dứt hẳn. Chúng tôi lại ít gặp lại nhau vì lo ngụp lặn, làm ăn, sinh sống. 

 

Trong dịp tết vừa qua, cộng đồng Việt Nam tại Chicago tổ chức Hội chợ. Tôi có ghé thăm với chủ ý để gặp lại anh em. Tôi đến thăm gian hàng Hội Phụ Huynh Học Sinh Và Học. Từ xa tôi thấy anh Đinh trong khăn đóng áo the đen. Còn chị Tiêu Phương súng sính trong bộ áo dài cổ truyền dân tộc màu nhiễu điều! Anh chị đang hạnh phúc đi bên nhau. Chúng tôi gặp nhau, chúng tôi vô cùng mừng rỡ. Cũng như những người lớn tuổi khác, ngày tư, ngày Tết, gặp nhau, sau những câu nghi lễ chào nhau, chúng tôi chúc tụng nhau. Trong dịp này anh chị Đinh cho tôi hay:

- Cháu Trung, như bác sĩ biết đấy, tốt nghiệp kỹ sư về Computer tại Đại học Champaign, Illinois, cách đây hơn 3 năm. Hiện Trung làm cho hảng Motorola tai Schaumburg, Illinois. Còn cháu Hùng hiện đang là Pharm D tại St Luke Hospital thuộc Viện Đại học Rush.  

Đến đây chị Tiêu Phương tiếp lời anh Đinh:

- Nếu không được sự dẫn dắt của bác sĩ ngay từ đầu, thì các cháu, ngay cả vợ chồng tôi, cũng không được như ngày hôm nay. Vợ chồng tôi lúc nào cũng nhớ ơn bác sĩ! 

Tôi thật sự xúc động khi nghe những lời tri ân của anh chị Đinh. Tôi nói:

- Thật ra, anh chị biết hơn ai hết, thoạt kỳ thủy là đều do anh chị. Khi anh chi lo xây dựng và chăm sóc sự học hành của con em cộng đồng Việt Nam ta trong vùng này gần 10 năm qua tức là anh chị cũng đang tích cực xây dựng cho con em mình. Thú thật, thưa anh chị và cám ơn anh chị anh chị đã nghĩ tốt về tôi. Thật sư tôi chỉ là thứ yếu. Chính sự hy sinh của anh chị cho cộng đồng mới là quan trọng.

Cùng lúc đó, bác sĩ Minh Châu vừa đi lại. Anh gặp lại tụi này anh mừng. Trong lúc hứng chí anh nhắc lại câu nói của tôi mấy năm về trước: “ Xác của Trung tá Định năm ở nhà quàn nào?”. Vô tình anh làm tất cả mọi người cùng cười. Sau đó chúng tôi chúc tết nhau. Tôi xin kiếu ra về. 

 

Bước ra ngoài cửa Hội chợ đến bãi đậu xe, tôi thấy một chiếc xe Lexus LE- 430 kiểu mới nhất, năm 2001, đang cố tình lái rề rề bên cạnh tôi, rồi đến đậu lại trong bãi đậu. Từ trong xe bước ra một thanh niên Da Trắng, trông hao hao như tài tử Mỹ, Steve Mc Queen. Anh tiến đến cúi đầu chào tôi như một thanh niên Việt Nam chào người trên trước trong ngày Nguyên đán:

- Kính bác sĩ năm mới! Con xin mừng tuổi bác sĩ. Bác sĩ còn nhớ con không? Con là thằng Bob đây!

Bất ngờ quá! Tôi thật sự ngạc nhiên. Tôi bắt tay anh ấy trong ngỡ ngàng:

- Hên!..Tôi nhớ ra anh rồi!

- Gần 10 năm mà Bác sĩ còn nhớ tên Việt Nam của con là Hên! Thầy biết, chỉ có thầy và bà già con là biết tên Việt Nam của con là Hên mà thôi. Ngay cả vợ con nó cũng không biết...

Nói xong anh chạy đến chiếc xe Lexus, mở cửa xe dẫn cô vợ lại giới thiệu với tôi. 

- Thưa Bác sĩ đây là vợ mới cưới của con. Mẹ con cưới cho con từ Lịch Hội Thượng tại Sóc trăng. Con vừa về Việt Nam làm đám cưới cách đây tám tháng…

Tôi thấy cô bé khá xinh đẹp, có phần bẽn lẽn khi đến chào tôi. Tôi nói thật Bob là tôi mừng cho anh ấy và anh cũng thật xứng đáng với cô vợ vô cùng xinh đẹp. 

- Thưa thầy vợ con là người Việt thiệt, không lai Tàu lai Tây gì cả. Con chỉ lấy vợ là người Việt mình, giống mẹ con vậy!

- Tôi mừng cho anh. Nhưng hỏi thật anh, anh làm ăn như thế nào mà anh có vẻ phát đạt như vậy?                    Bob cũng thành thật cho tôi hay nhờ tài bương chải và sự khôn ngoan từng trải đời của mẹ. Mẹ anh đã dạy anh nên người. Bây giờ anh là chủ nhân của hai tiệm “Nails”. Một cái ở trong Downtown của Chicago, một cái ở ngoại ô! Bob nói tiếp:

- Cưới vợ con về, con dạy nó làm nghề “Nails”, để mai mốt nó tiếp tay với con làm ăn. Bà già con già rồi... Anh ấy chỉ tay vào xe Lexus:

- Thưa Bác, mẹ con đó.

Tôi nhìn vào trong xe thấy một bà già tóc bạc trông thật là đẹp lão. Tôi thấy bà cúi đầu chào tôi. Tôi cũng cúi đầu chào lại bà. Tôi bắt tay Bob và chúc anh và gia đình năm mới hạnh phúc, làm ăn phấn chấn hơn nữa. Vợ chồng anh ấy cũng chúc lại tôi cũng gần như tôi chúc vợ chồng anh ấy. Khi tôi đi xa độ mươi bước, tôi nghe tiếng bà già anh ấy hỏi:

- Ông ấy là ông nào vậy? Tao nghe mày nói chuyện mày xưng hô với ổng khi thì thưa ‘bác sĩ’ khi thì thưa ‘thầy’, khi thì thưa ‘bác’! Sao lạ vậy?

- Dạ! Có lạ gì đâu, ổng là bác sĩ mà gần 10 năm trước ông ấy dạy con.

- Mày nói coi bộ ngộ. Ông ta là bác sĩ, sao ổng lại dạy mày? Mày có học bác sĩ bao giờ đâu? 

Tôi ngó lại thấy Bob huơ huơ hai tay lên trời ra vẻ phân bua với mẹ anh ấy…

 

Về đến nhà tối hôm ấy, vừa mở cửa vào, vừa nghĩ đến dáng ÇiŒu phân bua cûa Bob v§i mË nó, tôi cười một mình. Thấy lạ, vợ tôi hỏi tôi cười về chuyện gì vậy? Tôi kể lại cho vợ nghe câu chuyện Bob phân bua với bà mẹ nó. Vợ tôi bảo:

- Không đâu anh, Bob và mẹ nó, ngay cả anh, tất cả đều nhầm! ñ‰n Mỹ, anh đâu còn là bác sĩ../.

 

Đào Như

Oak park, Illinois, USA

Jan/2001

Ý kiến bạn đọc
31/03/202006:31:05
Khách
Hay tuyệt vời! Đọc một mạch không bỏ sót một chữ. Câu chuyện rất có hậu.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cô Tư tôi (tên cô là Ngọc Quỳnh) dáng người thanh thoát, gương mặt sáng, đôi mắt đẹp, đài các. Năm nay bước qua tuổi thất thập nhưng vẫn khỏe mạnh nhanh nhẹn, dấu ấn thời gian vẫn chưa xóa hết nét xuân sắc một thời. Cô có một mối tình “thời xa vắng” thật lâm ly, và bi văn đát. Hôm nay giấu cô, tôi kể lén cho mọi người nghe chơi...
Sau cái ngày mắc dịch 30 tháng 04 năm 1975, tôi bị tống cổ khỏi trường trung học ở Sài gòn vì chạy giặc trước đó và khai hộ khẩu ở ngoại thành sau hoà bình nên phải về học ở ngoại thành. Đúng là trời bắt phong trần phải phong trần/ cho thanh cao mới được phần thanh cao… Mẹ tôi dụng câu Kiều để an ủi tôi hay chửi xéo: Mày ăn ở làm sao mà ra nông nỗi? Thôi thì ý trời biết đâu mà cãi, lòng mẹ bao la như biển Thái bình, chắc mẹ thương cảm mình đó! Nên từ đó tôi yên tâm được biết cây lúa, con trâu… và Thùy.
Từ ngày May về sống với anh. May và Ngạc là cặp đôi trùng phùng do dây tơ hồng nào đâu định liệu, kết lại thành keo dán với nhau. Ơ, có ai biết thời này là thời đại nào rồi, mà hai người tự thề non hẹn biển, kết nối, giao ước sống đời, mà chưa tỏ tường biết rõ mặt nhau. May giới thiệu mình qua điện thoại (thiệt hay giả cũng chẳng biết đâu mà mò). Em không đẹp, chỉ nhìn tàm tạm, bắt mắt với người này nhưng không bắt mắt với người kia. Em chỉ được nước da trắng thôi...
Tiếng hát khàn đục, nghẹn ngào của người ca sĩ da đen phát ra từ chiếc loa nhỏ, cũ kỷ tình cờ ở một góc đường thành phố New York. Họ là những ca sĩ đường phố, hát lang thang đây đó để bán những đĩa hát của mình...
Mẹ và hai chị em tôi đã chuẩn bị xong một bữa ăn ngon lành. Chiều nay nhà có khách. Gia đình bác Hải từ tiểu bang California đến Salt Lake City du lịch và sẽ ghé nhà tôi, mục đích chính là cho trưởng nam của hai bác là anh Nhân gặp Kim Thịnh chị tôi...
Trời xanh lơ, dịu dàng. Chơi vơi đôi ba cánh ưng chao liệng tìm mồi. Rừng thông bát ngát xanh kín rặng núi trùng điệp xa xa. Con đường đất từ ngôi nhà ra đến khu rừng chỉ vừa hai người đi lọt, cỏ tranh mọc um tùm hai bên. Đến bìa rừng, con đường bỗng doãng ra thành khu đất trống, trên đó trơ trọi một mái nhà nhỏ cũ kỹ làm toàn bằng thân gỗ thông trông như nơi trú ẩn của những người liều mạng đi khai phá đất đai, tìm vàng thuở miền đất này còn hoang vu, yên ắng...
Từ muôn đời nay tình yêu là một giấc mộng đẹp giữa đời thường cuộc sống. Có tình yêu, cuộc sống của con người ý nghĩa hơn vì mọi hỷ, nộ, ái, ố cũng như... thất tình sẽ "được" tình yêu mang đến cuộc sống của chúng ta một cách nhanh chóng và "đầy đủ"...
Cơn mưa đột ngột buổi chiều vào ngay giờ cao điểm đông xe, đông người trên phố. Trở lại công việc ngay mùng Ba Tết, bữa nay thì phải chạy giao hàng từ sáng sớm, tôi mệt mỏi tách chiếc ‘cánh én’ cà tàng của mình ra khỏi luồng xe, tấp đại vô một mái hiên. Một chiếc hai bánh khác cũng tấp theo và một cặp trai gái hối hả bỏ xe chạy vô đứng cạnh tôi...
Từ mấy ngày nay, chợ Đầm đã rộn rịp cho bốc thăm, chia lô để làm chợ Tết. Năm nay, theo lệnh nhà nước, Tết đến sớm hơn mọi năm một tháng. Như để nhắc nhở, lịch năm mới được bày nhan nhản khắp các cửa tiệm. Đặc biệt là các cửa hàng quốc doanh thì lại chẳng có cuốn lịch nào, vì lịch đã chui ra ngoài cả rồi. Lịch năm nay trông tiến bộ lắm, thôi thì các tài tử tha hồ mặc đủ loại áo quần thời trang từ nước ngoài gửi về, nghiêng bên này, liếc bên kia, õng ẹo không kém gì các minh tinh màn bạc Hồng Kông. Có cô còn cầm trên tay một trái táo đỏ nhập theo hàng hoá của các tàu buôn chở đến, ra cái điều sung túc lắm. Ngự Chiêu và Thư Hương nắm tay nhau đi thơ thẩn qua các cửa hiệu, vừa chỉ trỏ các cô tài tử trên lịch, vừa cười khúc khích phê bình vô tội vạ. Thư Hương cười đến suýt ngất khi thấy hình một cô gái miền Bắc mặc áo dài cổ cao thật là cao kiểu một ngàn chín trăm... hồi đó!
Sáng hai mươi tám tết, tôi đạp xe xuống quán cà phê Quỳnh Giao ở gần nhà. Quỳnh Giao học sau tôi hai lớp ở trường trung học vài năm trước, nay thì mức độ nổi tiếng của cô ấy như vết dầu loang ra khỏi vùng ngoại ô, lên tới cổng trường đại học bên Sài gòn vì nhan sắc hơn người. Quỳnh Giao đẹp rực rỡ trong mấy chị em gái đều xinh xắn, nhưng tính nết dễ gần của cô được lòng người lớn kẻ nhỏ hơn chị em trong nhà có quyền thế trước biến cố lịch sử. Họ cắn răng chịu đựng cuộc đổi đời hơn là thả lỏng để hoà vào cuộc sống đã đổi thay nhiều như Quỳnh Giao.
Vài cái Tết thuộc những năm người dân cả nước ‘ăn độn’ trong thập niên 1970 thế kỷ trước đã để lại trong tâm khảm tôi dư vị rất chua chát. Nay ngồi chợt nhớ lại mà không khỏi chạnh lòng, vừa sượng sùng vừa tội nghiệp chính mình...
Thật ra mỗi năm đến Tết Ba Má đều xếp vàng bạc để cúng và đặc biệt nhớ tới ông bà và cha mẹ, chứ mình không có tin dị đoan con ạ! Người chết là hết, vàng bạc đối với họ đâu có ý nghĩa gì! Ý nghĩa là với người sống thôi! Sống sao cho đẹp, đó là mình đã làm cho họ vui lòng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.