Hôm nay,  

Bút ký: VỀ MỘT BUỔI CHIÊU CUỐI NĂM

21/01/202018:21:00(Xem: 4226)

Dao Nhu                                                                                                                   

                          

Gửi Đỗ Cung

(Nhà Nặn tượng và Phù điêu)

                                                                                                                                                                                                                                        

Tôi đến thăm anh vào một buổi chiều cuối năm, trong lúc anh ngồi đối diên với tác phẩm phù điêu“Măt Trời Tự Do”-một công trình anh hoàn thành một năm sau khi anh và gia đình đến Mỹ theo diên H.O. Sau khi mời tôi uống với anh một chén trà ấm, anh kể cho tôi nghe “môt góc đời” của anh:  

- Tôi là lính trận. Kẻ bị hy sinh. Chúng tôi chết cho tổ quốc à? Chúng tôi chết cho cả một bọn gian ác sống bằng máu xương của lính. Bọn buôn lính. Muôn vạn người chết cho một nhóm người hưởng. Xương máu của lính của dân. Cả một bè lũ phản quốc. Bọn Việt gian. Sau 30/4/75 chúng ta có thể chỉ mặt từng tên. Chỉ có ngưới lính trung kiên ở lại với tổ quốc. Chết! Một danh từ khô đét, khét mùi thuốc súng. Chiến Sĩ Trận Vong hay Liệt Sĩ cũng vậy thôi. Nghe oai đấy, nhưng không có nghĩa gì hơn kẻ đã chết. Trong nh»ng cuôc hành quân tåi C° Thành Quang TrÎ, chúng tôi nhiều lúc cận chiến với trẻ em Bắc Việt, những xác chết bỏ lại trên chiến trường dưới 20 tuổi. Trước khi chết, các trẻ em ấy chưa biết làm tình nữa là khác chứ đừng nói lý tưởng này chủ nghĩa nọ. Chúng chết với tâm hồn trong trắng như trang giấy mới trong tập vở học trò. Cái chết thật là phi lí, bi thương!

 Ngừng một chập để thở. Anh nói tiếp:  

- Hòa bình chưa được mười năm, thì tiếng súng lại vang rền cả nước từ trận Ấp Bắc năm 1963. Ai cũng sợ hãi, cũng xoay lưng lại chiến tranh. Lúc ấy cả bọn sinh viên Sàigòn thật nhảm nhí, tên nào cũng kịch cợm, trên tay cầm quyển sách của J. P. Sartre, A. Gide, Gabriel Marcel, Simone De Beauvoir, Antoine De Saint Exupéry, Albert Camus…Những sách này được xuất bản dưới hình thức sách bỏ túi, Livres de Poche, giá rẻ mạt, 10 đồng một cuốn. Họ dụm ba, dụm bảy trong những nhà hàng Givral, Continental, Imperial, Pagoda…uống cà phê, nói chuyện trên trời dưới đất, phù phiếm. Có người huênh hoang kể câu chuyện Kierkeguard cho cả bọn nghe: “Một buổi sáng khi thức dậy, Kierkeguard thấy mình nằm chết, lúc đó Kierkeguard mới nhận ra mình là hiện hữu..”. Ấy thế mà cả bọn gật gù, tỏ vẻ hiểu biết về Kierkeguard một cách sâu sắc. Những năm sau đó cả bọn sinh viên Sàigòn  ngã lăn ra, ôm nhau rên rỉ khi nghe những Tình Khúc của Trịnh Công Sơn, có bọn khóc òa khi nghe Nhạc Phản Chiến của ông ta. Họ khóai trá khi nghe đài phát thanh Hànội ca tụng sinh viên Sàigòn phản chiến chống Mỹ, chống quân dịch. Họ là những con Kangaroos, chạy trốn thực tế, chui đầu vào bụi rậm. Tôi cũng đã là một trong những lũ sinh viên ấy, con người của một thời đại thiếu lý tưởng, sống với bộ não thiếu máu, thiếu dưỡng khí. Ban ngày sống vất vưởng trong sân trường Đại học, trên đường phố Sàigòn, nhâm nhi mẩu bánh mì với cà phê nguội, hay lê lết ở quán ăn Anh Vũ, quán cơm Xã Hội dành cho sinh viên. Tối đến chun vô một xó nào đó xem vũ sexy, trốn lính. Lố bịch hơn nữa là thành phần trí thức. Sau hội Genève gần 10 năm, họ chưa nhận chân được sự thật. Họ tự cho họ là thành phần trí thức ưu việt, họ vẫn khư khư ôm lấy giai cấp trí thức của họ, như ôm lấy “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều” như một phần gia bảo của họ. Họ sống nhởn nhơ trên những ân huệ mà họ thừa hưởng từ chế độ của cụ Diệm. Họ là giáo sư đại học, bộ trưởng, tướng tá, văn sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ…Họ, cổ thắt cà vạt, chân mang giầy da, tay xách va li, bay đó, bay đây, đi Tây, đi Mỹ, miệng đọc discours, ăn tiệc nhoàm nhàm. Có một lũ biến chất rất sớm làm tay sai bồi bút cho ngoại bang. Họ cạo đầu, xuống đường phản lại cụ Diệm. Họ cao vọng, nếu có gì, nhờ “quá khứ công thần ngoại bang” họ có thể ôm chân quan thầy chạy ra ngoại quốc. Họ nằm mơ giữa ban ngày. Ngày 30/4/75 họ bị đạp rớt khỏi càng trực thăng. Họ bị bỏ rơi thảm hại. Năm 1969, khi vào quân trường tôi mới hiểu được người lính. Tôi mới hiểu được thân phận của họ, thân phận của chính tôi…

    Nghỉ một chập, anh tiếp tục và tôi lặng thinh nghe anh nói, anh đang trút bỏ những uất hận  trong nhiều thập niên qua:

- Sau khi tốt nghiệp Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sàigòn, ban Điêu khắc, hệ 7 năm, tôi bị động viên vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ đức năm 1969. Tại quân trường Thủ đức, cùng hai bạn điêu khắc khác, chúng tôi thực hiện pho tượng dựng trước Hội Quán Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức với chủ đề“Trai Thời Loạn”. Đến nay, sau bao nhiêu thăng trầm của đất nước, bức tượng vẫn còn nguyên vị trí của nó, nhưng Trường Bộ Binh Thủ Đức ngày xưa nay đổi thành Trường Đảng. Sau khi tốt nghiệp trường bộ binh Thủ Đức, tôi là sĩ quan tác chiến của Thủy Quân Lục Chiến, thuộc Tiểu đòan Trâu-điên, đóng tại Đông hà, Thạch hãn rồi Huế. Vào những năm 69-70 tôi tham dự những trận đánh Thach hãn, Đông hà. Năm 1971 tôi được lệnh thuyên chuyển, điều động về làm trưởng xưởng đúc của Hải Quân Công Xưởng. Sau này, năm 1972 tôi là Sĩ quan, Trưởng phòng Chiến tranh chính trị. Tháng 6 năm 1973 tôi lại được thuyên chuyển bằng công điện, thuộc đơn vị yểm trợ và tiếp vận Hải quân tại Đà nẳng. Do đó tôi tham dự trận hải chiến đánh Trung cộng tại Hoàng sa.

Chờ một chập cho anh đỡ mệt, tôi hỏi:

- Về mặt sáng tác, anh làm được những gì trong những năm chiến tranh, ngòai bức tượng ciment cốt thép Trai Thời Loạn tại Trường Bô Binh Thủ đức?

- Hình như ai đó đã nói Chiến tranh là cha đẻ của sáng tạo và phát minh, nguồn cảm hứng của thi ca, văn học và triết học. Những tác phẩm để đời cho hậu thế đều được hoàn thành trong đòi hỏi nghiệt ngã của chiến tranh, như Vạn Lý Trừơng Thành của Nhà Tần, Illiade và Odyssée của Homère, mãi mãi là tác phẩm kiến trúc và thi ca lớn của lòai người…Trong thời chiến tôi cũng có những suy nghĩ táo bạo về sáng tạo. Nhưng chỉ để dành trong cuốn phác thảo chân dung, chờ ngày hòa bình. Nặn tượng làm sao có thể thực hiện được trong hòan cảnh khốc liệt của chiến tranh. Tuy nhiên tôi cũng khắc phục được những khó khăn nhất thời. Những ngày ở hậu cứ tôi cũng tập trung vào sáng tác. Dĩ nhiên về kích thước những tác phẩm của tôi vào thời ấy thuộc loại bỏ túi. Năm 1973, tôi cũng tranh thủ triển lãm những tác phẩm điêu khắc của tôi tại Hội Việt Mỹ tại Đà Nẳng, với 32 tác phẩm điêu khắc của riêng tôi. Lúc ấy có một họa sĩ chuyên vẽ tranh lụa xin được phụ vào 20 tác phẩm của anh ấy.

Tôi cướp lời anh. Tôi hỏi:

-  Anh có thể cho biết chủ đề của cuộc triển lãm điêu khắc của anh năm 1973?

- Tôi không thích cuộc triển lãm của tôi bị đóng khung trong ‘chủ đề’, nghe nó chật chội, hạn hẹp, như một nhà thơ làm thơ với nhiều hạn vận và kị húy vậy. Năm ấy cũng có nhiều anh em sợ cuộc triển lãm của tôi thiếu định hướng, họ cũng đòi hỏi ở cuộc triển lãm của tôi một ‘chủ đề’. Làm sao mà quí vị đòi hỏi ở tôi nhiều quá vậy? Quí vị phải hiểu tôi chớ. Làm sao tôi có thể phủ trên nó một chủ đế hay cho nó một hướng đi dứt khoát được. Những tác phẩm điêu khắc của tôi, những đứa con mang nặng tâm hồn của một người vốn dĩ đã một thời sống không lí tưởng và mãi đến bây giờ vẫn chưa biết mình là ai. Vẫn chưa biết mình đang ở đâu, trong giai đoạn nào của trong cuộc đời của riêng mình.

Nói đến đây, anh vụt đứng dậy, nước mắt ràn rụa, anh quay mặt vô tường, anh nắm tay đánh mạnh vào tường. Hai vai gầy yếu xanh xao của anh run lên cùng tiếng nấc. Anh đau khổ tột cùng. Không ngờ một câu hỏi đơn thuần như vậy lại dấy lên niềm trắc ẩn sâu xa của một nhà điêu khắc ngụy trang dưới lớp áo trận trong hơn mấy mươi năm. Anh dán mắt lên trần nhà như cố tìm lại hình ảnh của một quá khứ xa xâm nào đó đã khắc họa trên tâm hồn mình niềm đau bất tận. Anh tiếp tục nói:

- Ba mươi hai tác phẩm điêu khắc của tôi trong cuộc triển lãm… mỗi tác phẩm mang riêng mỗi dấu ấn của tâm hồn tôi .Những khát khao của thời đại: Hòa bình và thịnh vượng. Những mơ ước của lứa đôi: tình yêu và tự do. Những đòi hỏi chân chính rất mực là người: môt thế giới không có chiến tranh, không có người giết người. Những ước mơ của tuổi thơ: được cắp sách đến trường, mơ về một tết Trung Thu...Có người hiểu được tôi rất cám ơn. Có người không hiểu được, tôi cũng không ngạc nhiên. Không hiểu được, hiểu không được, là quyền tự do của mỗi người. Hiện tại tôi còn giữ lại một tượng nổi Sống Còn”. Tượng này tôi làm bằng đá quí. Tôi hoàn thành thực hiện tượng này cuối năm 72. Có nhà buôn Đại Hàn, nghe tiếng bức tượng, tìm đến xem. Sau 3 ngày chiêm ngưỡng ông ngỏ lời muốn mua nó với giá 4000 đô la! Lúc ấy vàng chỉ có 100 đô la một lượng. Nhưng tôi từ chối. Tôi nói thẳng là tôi không có ý bán. Bức tượng nổi ấy có một định mệnh khá hốc búa. Năm 1982, sau khi tôi đi tù cải tạo về, Sở Văn Hóa Nghệ Thuật của Thành phố có cho người lại “coi mắt” tượngSống Còn” của tôi. Nói đến đây, anh liền bê tượng nổi Sống Còn”có hình hai con cua đang đánh nhau ác liệt. Một con màu xanh của rêu và một con màu đỏ. Hai con cua mãi say đấu quên cả thân phận mình bị vây hãm trong một chậu nước cạn nhỏ nhoi. Anh nói:

- Khi ‘nó’ đến “coi mắt” tượng nổi Sống Còn” của tôi, tôi muốn nói tên đại diện Sở Văn Hóa của Thành phố đấy, có lúc hắn ta mở tròn đôi mắt, có lúc nó nhắm ghiền đôi mắt lại. Tôi thấy rõ hai mí mắt trên của nó giật…giật, run…run…Tôi ngại quá. Nó đang tập trung tìm ra một khuyết điểm nào đó trong tác phẩm của tôi, và nó sẽ giáng xuống một đòn trí mạng: hỏng, hỏng, hỏng…tác phẩm Sống Còn” của anh có tư tưởng phản động…Có thể như vậy lắm. Lúc nó khảo sát hai con cua, mặt nó như biến dạng đi. Cái mũi của nó lệch sang một bên. Trông mặt nó dị hợm. Chợt nó mở đôi mắt thao láo nhìn tôi:

- Tác phẩm Sống Còn” của anh…có tầm vóc!…

Rồi nó nói say sưa, như nó nói một mình:

- Có một nhân vật thứ ba anh không vẽ ra, anh không nặn ra, mà người ta vẫn thấy nó và sờ được nó trong trí tưởng. Đúng, Văn Cao đã nói; “những cái không nói tới mà người đời càng tìm càng thấy mãi”. Rồi hắn nhảy bổ đến ôm vai tôi, hắn lay tôi thật mạnh. Tôi như người vừa tỉnh sau cơn mơ. Lúc này tôi tỉnh táo hơn và nghe hắn nói rõ mồn một:

- Tác phẩm Sống Còn’’ của anh là thực tế của những suy nghĩ về cuộc chiến. Anh là người can đảm dám nói lên tư duy của mình về cuộc chiến. Chúng tôi sẽ cố gắng làm việc với Trung ương, để đưa Sống Còn” của anh vào vị trí xứng đáng của nó-Tài Sản Quốc Gia! Rồi hắn ôm tôi, hắn bắt tay tôi ra về không kịp uống với tôi một chén trà. Hắn đến với tôi như vậy đó. Như chớp nhoáng. Như cơn lốc.

Vợ tôi thì buồn. Bà ấy nói:

- Tên ấy nói cho lắm, cũng không ngòai tước đoạt tài sản của anh. “Tài Sản Quốc Gia” nghĩa là gì? Nó hợp tác xã‘‘Sống Còn’’của anh, mình còn chia chát tí đỉnh mà sống, chớ còn “Tài sản Quốc gia” nghe thơm, nhưng mình không được gì hết. Đói đấy anh ạ. Hơn 40 lượng vàng không chịu bán, bây giờ đành chịu mất!

Nói đến đây giọng anh như khàn đi:

- Sau 30/4/75 tôi cũng bị bắt đi tù cải tạo tại ở Xuân lộc (Long giao), Suối máu. Kà Tum, Trảng Lớn, Vườn đào...Tôi đã kinh qua các trại học tập lao cải này, tôi bị ngược đải, hành hạ tàn tệ do hận thù phi lý được tạo nên từ một cuộc chiến quá dài...Tôi được lệnh tha næm 1981. Hộ khẩu của tôi tại Sàigòn. Công an quản chế hắc ám hết chịu n‡i. Nhưng rồi ai ai cũng gồng mình mà sống. Lăn lóc sống. Hồi hộp sống. Sống trong chờ đợi…không biết ngày nào công an sẽ vồ mình vô tù trở lại. Cộng sản có hơn một ngàn lẻ một lý do để bắt chúng tôi trở lại tù tập trung. Đêm ngủ không yên giấc. Nghe tiếng chó sủa cũng sợ. Nghe bước chân đi của người láng giềng cứ ngỡ là công an đến bắt mình vô tù trở lại. Nhiều lúc thấy mình trong kiếng cũng sợ. Mình cũng không nhận ra mình là ai. Có lúc giữa ban ngày nhìn thấy cái bóng của mình cứ tưởng là tên công an theo dõi. Nhưng nghĩ cho cùng “tù tại gia” hay “tù tập trung” cũng không khác nhau mấy. “Tù tại gia” cộng sản khỏi phải lo cơm, nên chế độ có nới hơn một chút, nhưng thiệt thòi cho vợ con, tăng thêm một miệng ăn đã đành, lại còn phải lo ngai ngái. Biện chứng “Tù Tại Gia và Tù Tập Trung Không Khác Gì Nhau” là một triết lý sâu sắc giúp đỡ anh em chúng tôi rất nhiều.  Mặc Cộng sản ra tay bắt bớ hàng đêm hà rầm. Mặc anh em chúng tôi cứ sống. Mặc thời gian cứ trôi. Không ai chờ đợi ai. Không còn ai, không còn gì để chờ đợi. Không còn gì để hy vọng. Thân phận bi đát. Trong sách Le Boujoum(*) nhà tư tưởng Cung Giũ Nguyên nói: “Một vật lơ lửng trên vực thẳm, được những sợi tơ mành của hy vọng giữ lại…”! Đó là kiếp nhân sinh. Con người tồn tại trong hôm nay là nhờ họ sống trong hy vọng. Mặc dù hy vọng nhỏ nhoi. Con người cần có hy vọng để mà sống. Nhưng “hy vọng nơi ai, hy vọng nơi gì? Có lý do gì hy vọng? ”. Chúng ta hòan toàn trơ trụi. Trước khi vô sản hóa nhân dân cả nước, Cộng sản lột trần chúng ta: không gia đình, không tổ quốc, không có riêng tư, không hy vọng cá nhân…Trước mắt chỉ có Quốc Tế Vô Sản.  Quốc Tế Vô Sản đang ở đâu? Họ đưa tay chỉ vào khỏang không: ngày mai! Nghĩa là không có gì hết. Có phải chăng chúng ta phải tạo ra hy vọng, như nhà tư tưởng Cung Giũ Nguyên đã nói: “ta cứ hy vọng thời gian kéo dài mãi, hay ít ra còn lâu nữa mới chấm dứt...”. Ta phải tạo ra hy vọng cho ta sống. Hy vọng giúp cho ta tồn tại, ngay cả những hy vọng phi lý như hy vọng thời gian còn lâu mới chấm dứt… 

Anh quay lại hỏi:

- Bác sĩ đọc xong Le Boujoum của Cung Giũ Nguyên chưa?

Sự thật cách đây mấy tháng, anh đến thăm và thấy quyển “Le Boujoum” để trên bàn tôi. Anh có hỏi tôi đọc chưa? Tôi cũng thú thật là tôi có đọc qua vài lần nhưng chưa thấu triệt được vì đó là quyển sách triết học chan hòa tư tưởng Triết lý Khoa học, Hiện Đại, Cổ Điển- Đông phương  và Tây phương. Rất khó đọc! Anh có khuyên tôi tiếp tục đọc đi và có dịp anh và tôi sẽ nói về quyển sách đó. Không ngờ hôm nay anh đem nó ra mổ xẻ một cách lý thú mặc dù anh mới vừa đề cặp một vài trang đầu!

 Anh tiếp tục nói:

- Chương trình đi Mỹ của chúng tôi, chiến dịch nhân đạo-Humanitarian Operation-H.O. Thật sự chương trình này nằm ngòai hy vọng của chúng tôi. Chúng tôi không thể tưởng tượng người lính Việt Nam Cộng hòa lại bị trao đi bán lại nhiều lần như vậy. Thân phận chúng tôi bèo bọt đến như vậy sao! Nhưng nghĩ lại “cánh hoa rụng chọn gì đất sạch”, thôi thì cũng đành. Có nhiều anh em không chấp nhận diện “Từ Thiện”(Humanitarian Operation) nghe nó buồn tủi! Hơn thế nữa, ai cũng biết thân phận của một người lính hay một công dân của một quốc gia nhược tiểu, bị trị, đi đâu rồi cũng vậy thôi. Nếu anh muốn có một đời sống vật chất cao, hưởng thụ một phần nào những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật thì anh phải chấp nhận lệ thuộc, làm theo ý muốn và sự quản lý của họ. Còn nếu anh muốn bảo vệ độc lập, tự do, dân chủ, bình đẳng thì phải chấp nhận nghèo đói và lạc hậu.

- Như vậy, anh đến Mỹ theo diện “Từ thiện”- H.O. Anh nghĩ gì về nước Mỹ và người Mỹ?

- Vâng, tôi đến Mỹ theo diện H.O. Khi đến Mỹ mình mới thấy sức mạnh của Mỹ. Họ khống chế thế giới mọi mặt mọi bề. Ở Việt Nam, đối diện với Chuyên Chính Vô Sản mình đã khiếp sợ. Đến Mỹ, xuyên qua cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 2000, Chuyên Chính Vô Sản vẫn còn thua xa, thiếu dân chủ, thiếu khoa học so với Chuyên Chính Tư Bản. Hình như chính bác sĩ đã nói: “Ai chưa đến Mỹ chưa biết được mình”! Câu nói ấy, tôi thiết nghĩ, đáng để chúng tôi suy ngẫm. Có một nguyên tắc chung cho mọi đường lối sinh hoạt của xã hội Mỹ, từ kinh tế, chính trị, nhân văn, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật đến tôn giáo:Tất cả chỉ vì lợi ích của nước Mỹ, Nothing but American interest! Tôi thán phục tinh thần yêu nước của người Mỹ. Trong công tác tiếp xúc với ta, nhiều lúc xem chừng họ như gần gũi với ta, như những lúc ngồi nói chuyện về ảnh hưởng tai nạn chiến tranh, về tù đày cải tạo, về sự khó khăn nhất thời của người tị nạn, chẳng những họ cảm nhận hòan cảnh của ta một cách sâu sắc mà nhiều khi họ còn tỏ vẻ am tường các vấn đề của ta hơn cả ta nữa. Khi nói về tiền bạc, an sinh xã hội, va chạm văn hóa, khác biệt ngôn ngữ, họ thường nói xa vời: nuớc Mỹ trong mấy mươi năm chịu ảnh hưởng chiến tranh Việt Nam nên nền kinh tế trì trệ. Họ khuyên ta học Anh văn thường xuyên để kiếm công ăn việc làm càng sớm càng tốt, để giảm bớt gánh nặng an sinh xã hội. Họ cũng thường khuyên nhủ mình nên quên cái quá khứ của mình đi, tạo cho mình một con người mới để phù hợp với xã hội Mỹ tiên tiến. Nếu cần, họ cũng không ngần ngại nói thẳng cho chúng ta biết cũng vì lợi ích của nước Mỹ, mới có chương trình di dân, tị nạn, hay chương trình H.O.  Người Mỹ đối với chúng ta: tuy xa mà gần, tuy gần mà xa; ta đối với người Mỹ cũng vậy: lúc xa, lúc gần...Cho nên mặc dầu, có khối người Việt có quốc tịch Mỹ, vấn đề hội nhập vào xã hội Mỹ vẫn còn là vấn đề tù đọng của cộng đồng người Việt.

 

 Trên tường phòng anh, treo một bức phù điêu cỡ 8 tấc x 8 tấc, làm bằng thép! Hình nổi trên thép là hình ảnh một người đàn bà mặc áo dài cầm nón lá che cho hai con gái, đứng bên cạnh người chồng có dáng dấp của người lính hiên ngang nhưng gương mặt anh đang phản kháng một điều gì. Anh nói với tôi về bức phù điêu:

- Tôi thực hiện bức phù điêu “Mặt Trời Tự Do” này và hòan tất nó một năm sau khi hai vợ chồng tôi và hai con đến Mỹ. Tôi sáng tác nó trong những điều kiện khó khăn về mọi mặt. Đó là hình ảnh gia đình tôi đến Mỹ vào năm 1994. Hiện tại các cháu đang ở riêng với mẹ, và đang theo học tại đại học UIC. Cháu lớn học về điện tóan, cháu nhỏ học về kế toán.

- Anh nói các cháu đang ở riêng với mẹ?

- Vâng, Bà ly dị tôi cách đây ba năm, sau hơn 25 năm đầu ấp tay gối. Một mất mát không gì đền bù nỗi. Chúng tôi yêu nhau và cưới nhau trong chiến tranh. Bà đã là mẹ các con tôi…Tất cả không còn thuộc về tôi nữa. Bà đã mang theo bà tất cả, ngay cả lời cầu xin của tôi: “xin bà ngoái lại ”. Bà vẫn dửng dưng. Thảm trạng của tình yêu, không phải là đau khổ hay ghen tuông, hờn dỗi. Nó là sự dửng dưng! Không phải lỗi tại ai cả. Chúng tôi chỉ là nạn nhân của chiến tranh!

- Anh có thể cho tôi biết anh đang làm những gì hàng ngày?

Anh xúc động mạnh. Anh cố gắng ngước mặt lên trấn nhà để ngưng đọng những giọt nước mắt. Căn phòng anh ở rất tươm tất và sạch sẻ, trong một chung cư lớn. Anh ở theo chế độ “housing”: nhà nước phụ trả tiền thuê cho anh vào khoảng 80-90%. Đó là chính sách của chính phủ Mỹ giúp cho những người nghèo sống tại Mỹ hợp lệ (tị nạn, di dân) cũng như những công dân Mỹ có lợi tức thấp. Phòng của anh được cấu trúc theo kiểu dành cho người độc thân. Yên tịnh và buồn.

   Sau một một hồi im lặng, anh nói:

- Như bác sĩ biết tôi bị ung thư hạch, lymphosarcoma, hậu vận rất xấu. Tôi vừa chấm dứt điều trị đợt 1 gồm có: chiếu xạ và dùng ung thư trị liệu. Tóc rụng chưa hồi phục. Tôi bị bần huyết một cách tệ hại. Tôi có thể phải chấp nhận truyền huyết một ngày gần đây. Bác sĩ chuyên trị cho tôi có cho tôi hay tôi có thể sống năm ba năm nữa. Thời gian của tôi bắt đầu điểm từng giờ. Sống một mình, nửa đêm thức giấc, tiếng đồng hồ gỏ nhịp tích tắc, tích tắc…nghe sốt ruột! Tôi tháo gỡ vụt mất cục “pin”. Anh vừa nói vừa chỉ đồng hồ treo trên tường. Cái đồng hồ đứng trơ, kim gió không lay động, chỉ đúng 2 giờ sáng, có lẽ lúc đó anh thức giấc và phát cáu với tiếng gọi thời gian.

Anh tiếp tục nói:

- Điều đáng sợ nhất của tôi hôm nay là nỗi cô đơn.

- Các anh em trong Câu Lạc Bộ và các anh em sĩ quan H.O thường lai vãng với anh chớ?

- Vâng các anh ấy vẫn lại thường xuyên. Tôi nghĩ, nếu không có anh em trong Câu Lạc Bộ của mình và các anh em chiến sĩ H.O thì chắc tôi đã đứt hơi từ lâu rồi.

- Xin lỗi anh, xin phép anh cho tôi hỏi anh một câu có tính cách chuyên môn và nghề nghiệp?

   Nghe thế, anh cười phá lên:

- Chắc chắn bác sĩ sẽ hỏi: tôi có ý muốn tự tử không?  Phải không?  Không đâu! Tôi là người lính trận đối diện với cái chết thường xuyên. Tôi không đến nổi khiếp nhược như vậy đâu. Tôi không bao giờ bị động chờ chết. Tôi đang sung mãn với nhiều đề tài sáng tác mặc dầu tôi đang vướng bận với nhiều khó khăn: cơ sở chật chội, tài chánh thiếu trước hụt sau, không còn ai để cùng chăn gối giải bày. Thời gian còn lại với tôi quí lắm. Tôi cướp giật từng giây. Trước mắt, tôi đang cộng tác với những báo Việt ngữ tại Chicago, Houston, Cali, Washington D.C.v.v…Anh vừa nói vừa chỉ một chồng báo Việt ngữ ở những địa phương khác nhau anh đang cộng tác.

- Anh hợp tác với các tờ báo Việt ngữ, ở các tiểu bang dưới hình thức như thế nào? Họ trả tiền nhuận bút có đúng mức như anh mong muốn? Họ có bốc lột anh không?

- Tôi nghĩ không ai bốc lột ai cả. Tất cả đều nghèo như nhau, tất cả đều là nạn nhân của thời thế, đều sống trong hoàn cảnh giống nhau, hiểu nhau đến tận xương tủy của nhau. Tôi không có viết. Tôi chỉ vẽ, phần nhiều là biếm họa.

- Tại sao anh lại chọn biếm họa ? Nửa thực, nửa hư?

- Vì nó dễ vẽ! Vẽ cái gì không có thực, hay nửa thực nửa hư thì dễ vẽ. Vẽ ma vẽ quỉ thì dễ vẽ, nhưng vẽ con người rất khó vẽ, nhất là vẽ con người với toàn vẹn lương tri của nó. Khó lắm! Vì hiếm lắm!..

Anh đến đứng bên cửa sổ nhìn ra ngòai trời, anh nói một mình: “Mới đó mà chiều rồi nhỉ, không ngờ hoàng hôn lại đến sớm thế…”!.

Tôi nghĩ đã đến lúc nên từ giã anh. Tôi đến bắt tay anh. Chúng tôi ôm nhau, và chúc nhau một năm mới với nhiều may mắn.
Ra khỏi cửa phòng anh, tôi quay lại vẫn thấy anh đứng nguyên chỗ ấy, bên cạnh cửa sổ, anh nhìn ra khoảng trời bao la, nơi tuyết và gió đang quần nhau trên mặt hồ Michigan mênh mông giá lạnh.../.

   

Đào Như

Tết Giáp Thân

Dec.2004

Oak park, illinois USA

(*)- Le Boujoum Tiểu thuyết triết học Pháp, tác giả Cung Giũ Nguyên,

 Xuất bản tại Mỹ vào năm 2000.

       

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Em yêu dấu: Anh sẽ kiến giải câu nói thời danh của Marcel Proust (*) để qua đó em có thể cầm nắm được trái tim nóng bỏng của anh trên tay. Marcel Proust nói rằng "Tình yêu là đem không gian đổi lấy thời gian”...
Suốt cả tuần nay Tokyo chỉ có một ngày nắng, hôm nay mưa đã tạnh thì khăn gói về vùng Kyoto/Osaka. Hai tuần nữa khi về lại đây thì những cây đào mượt mà nầy chỉ còn những cành cây cằn cỗi, phủ đầy rêu, trơ trụi. Vì thế mà chuôi kiếm của người samurai thường khắc cánh hoa đào để biểu tượng cho cuộc đời hào hùng, đẹp đẽ mà ngắn ngủi, đầy bất trắc.
Thành phố đầu tiên chúng tôi dự tính đến thăm là Thành phố Philadelphia, một thành phố đã từng là thủ đô của Hoa Kỳ trong thời kỳ đầu lập quốc mà nay nó đã trở thành cố đô. Sau đó chúng tôi sẽ đi thăm một vài di tích lịch sử, văn hoá và thắng cảnh đặc biệt của Tiểu bang Pennsylvania nếu thời gian cho phép...
Thầy ngồi trên kia, sau cái bàn rộng, chỉ có một quyển sách mỏng trước mặt và không thấy ông mở ra. Như thói quen, ông không viết bài, viết dàn bài trên bảng, phấn với bảng ít khi ông dùng tới, có thể tất cả đã được sắp xếp chuẩn bị chu đáo và có lớp lang trong đầu ông. Đúng vậy, ông vẫn từ tốn nói theo những ý nghĩ dường như vẫn có sẵn trong tâm trí. Ông nói không vấp váp, từ từ, lôi cuốn và thuyết phục. Ông có một « schéma » trình tự đi tới, đi tới không hề áp đảo...
Sau 1975 những người còn ở lại miền Nam Việt Nam không biết những ai đã nghĩ ra và những ai đã là người đầu tiên ra khơi vượt biển đi tìm tự do, để cho dòng người đi sau tiếp nối không bao giờ ngừng nghỉ nếu các trại tị nạn không đóng cửa chấm dứt chương trình cưu mang những người vượt biển. Ai cũng mơ ước, cũng tính đường đi tìm tự do tùy theo hoàn cảnh khả năng tài chính của mình. Bao nhiêu người đã may mắn đến bến bờ và cũng bao nhiêu người bất hạnh bỏ xác ngoài biển khơi!
Ở xóm tôi, từ đầu xóm đến cuối xóm, hầu như nhà nào cũng có người đi vượt biên. Nhưng không phải ai cũng may mắn đến bờ tự do, bởi nếu đếm số người “đi không về và cũng không bao giờ đến” ở xóm cũng cỡ hai chục mạng người, trong đó có cô bạn rất thân yêu của tôi và một gia đình mất một lúc sáu người, đó là gia đình Bà Già Gân...
Tôi nhớ dạo còn nhỏ, ba tôi thường hay kể về chuyện “chạy giặc” cho anh em tôi nghe. Đại khái là vào những năm 1944-1945 ở Đà Lạt cũng rơi vào tình trang chiến tranh như mọi nơi khi sự hiện diện của hai quân đội Pháp lẫn Nhật trên mảnh đất Hoàng Triều Cương Thổ của nhà Nguyễn...
Kim Thánh Thán là một văn nhân nổi tiếng vào cuối đời Minh đầu đời Thanh, trong gia tài văn chương của ông có một bài tản văn nổi tiếng mà người yêu thích văn chương xưa nay đều biết. / Jin Shengtan was a famous writer in the late Ming and early Qing dynasties. In his literary legacy, there is a famous prose that all lovers of literature know.
Tôi không phải cậu trai học giỏi nên mãi đến năm mười ba tuổi tôi mới thi đậu vào trường Bưởi. Tôi thi đậu nhờ bố tôi chạy chọt nhờ vả người quen, chứ sức tôi thì tôi biết mình chẳng bao giờ được vào học cái trường trung học danh tiếng ấy...
Án Tử (Án Anh) là Tướng quốc của nước Tề thời Đông Châu. Ông người thấp nhỏ nhưng trí óc cực kỳ thông minh, đầy mưu lược. Người đánh xe cho ông lại là một người cao lớn, dềnh dàng. Anh này rất hãnh diện vì được làm công việc đánh xe cho vị Tướng quốc tài giỏi này. Thường ngày anh ta hay cầm ngọn roi ngựa trên tay, đi đâu cũng hò hét nạt nộ om sòm...
Chiều nay, Vinh ăn cơm sớm để đi họp tổ dân phố. Đường từ nhà đến trường tiểu học, nơi được chọn làm địa điểm hội họp, phải đi qua chợ Tròn. Quận lỵ nhỏ bé này có hai cái chợ không có tên, để phân biệt người ta gọi là chợ cũ và chợ mới, hay theo hình dạng là chợ dài và chợ tròn. Hai cái tên sau được ưa chuộng hơn nên lâu ngày thành tên chính thức. Chợ Tròn, là một phần của cư xá nhân viên nhà máy, được xây cất hình tròn với mái che vành khăn bằng bê tông rất đẹp, có bán gần đầy đủ các thứ cho nhu cầu ăn uống và tiêu dùng hàng ngày. Chợ tuy nhỏ nhưng nằm ở vị trí thuận tiện, chung quanh là đất trống rộng rãi, phố xá khang trang nên sinh hoạt có phần thịnh hơn chợ dài nằm trên liên tỉnh lộ, cách đó chỉ hơn một cây số.
Ngày 30 tháng 4 lại đến gần, chúng ta lại được đọc những câu chuyện kể hay được viết lại về những chuyến vượt biển hiểm nguy đi tìm cái sống trong cái chết. Những hình ảnh đau thương lại tràn về trong tâm khảm của những thuyền nhân như chúng ta. Riêng tôi, ngoài những lo sợ, những kinh hoàng bị bắn, bị rượt đuổi, tôi xin viết lại một câu chuyện buồn mà vẫn phải… cười, gọi nôm na là chuyện buồn cười...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.