Giữa lúc tình hình ngày càng căng thẳng, Hoa Kỳ và TQ đã ký một thỏa ước song phương về khoa học và công nghệ vào ngày 13 tháng 12 năm 2024. Dù được coi là sự “gia hạn” của hiệp ước 45 năm trước nhằm khuyến khích hợp tác, thỏa ước mới có khá nhiều điều thay đổi, và thực ra, đây là một bước ngoặt lớn.
Thỏa ước mới đã thu hẹp đáng kể phạm vi của hiệp ước ban đầu, giới hạn các chủ đề được phép nghiên cứu chung, hạn chế cơ hội hợp tác và bổ sung cơ chế giải quyết tranh chấp mới.
Sự thay đổi này cho thấy khuynh hướng chung của thế giới trước mối lo ngại về an ninh trong nghiên cứu khoa học. Chính phủ các nước ngày càng lo lắng về nguy cơ các đối thủ quốc tế lợi dụng sự hợp tác khoa học xuyên biên giới để chiếm thế thượng phong về quân sự, mậu dịch hoặc đánh cắp bí mật an ninh quốc gia.
Trong vài tháng gần đây, Liên Âu, Canada, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã đồng loạt công bố các biện pháp nghiêm ngặt nhằm bảo vệ các nghiên cứu nhạy cảm khỏi sự can thiệp từ nước ngoài. Nhưng có một vấn đề là: nếu siết chặt an ninh quá mức, có thể cản trở sự hợp tác quốc tế, vốn là động lực thúc đẩy tiến bộ khoa học.
Là một nhà phân tích chính sách và là giáo sư về quan hệ công chúng (Ohio State University), Caroline Wagner đã nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong khoa học và công nghệ, cùng những tác động đối với các chính sách công và đối ngoại. Bà cũng đã dõi theo mối quan hệ ngày càng gần gũi trong lĩnh vực khoa học và công nghệ giữa Hoa Kỳ và TQ, từ việc chuyển giao kiến thức ban đầu cho đến sự hợp tác và cạnh tranh thực sự sau này.
Giờ đây, khi các quy định về an ninh làm thay đổi mối quan hệ hợp tác từng cởi mở này, có một câu hỏi quan trọng là: Các quốc gia có thể thắt chặt an ninh nghiên cứu mà không làm suy yếu sự cởi mở, vốn là nền tảng cho sự phát triển khoa học, hay không?
Sự trỗi dậy của TQ thay đổi cục diện toàn cầu
Sự gia tăng số lượng các công bố nghiên cứu khoa học của TQ đánh dấu một bước chuyển mình lớn trên bản đồ nghiên cứu toàn cầu. Vào năm 1980, các khoa học gia TQ chỉ đóng góp chưa đầy 2% số bài báo nghiên cứu được đưa vào cơ sở dữ liệu Web of Science. Tuy nhiên, đến năm 2023, con số này đã tăng lên 25%, vượt mặt Hoa Kỳ và chấm dứt 75 năm dẫn đầu của chúng ta kể từ năm 1948, khi Hoa Kỳ vượt qua Anh.
Không chỉ về các bài báo nghiên cứu khoa học, TQ cũng trở nên nổi bật về bằng sáng chế (patents). Nếu như năm 1980, TQ chưa nắm trong tay bằng sáng chế nào, thì đến năm 2022, các công ty TQ đã dẫn đầu trong danh sách số lượng bằng sáng chế do Hoa Kỳ cấp cho các công ty nước ngoài. Họ đã sở hữu 40,000 bằng sáng chế, so với chưa đến 2,000 bằng sáng chế của các công ty Anh. Trong nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ tiên tiến, TQ đang là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới, nếu không muốn nói là dẫn đầu.
Kể từ năm 2013, Bắc Kinh trở thành đối tác hàng đầu của Washington trong lĩnh vực khoa học. Hàng ngàn sinh viên và nhà nghiên cứu TQ đã hợp tác chặt chẽ với các đồng nghiệp Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thay vì thúc đẩy tự do, dân chủ như kỳ vọng của các quyết sách gia Hoa Kỳ khi ký hiệp ước song phương năm 1979, Bắc Kinh đã tận dụng công nghệ để củng cố chế độ chuyên quyền của mình và tăng cường sức mạnh quân sự với tham vọng trở thành cường quốc khu vực và toàn cầu.
Khoa học và công nghệ không chỉ quyết định thắng thua trên chiến trường mà còn là chìa khóa cho sự phát triển kinh tế. Sự trỗi dậy của TQ, với sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước, đang định hình lại cán cân quyền lực thế giới. Trái ngược với các quốc gia có nền khoa học cởi mở và minh bạch, TQ thường “ém” bí mật các kết quả nghiên cứu, đồng thời khai thác công nghệ từ phương Tây qua các hoạt động như tấn công mạng, cưỡng ép chuyển giao công nghệ và cài gián điệp công nghiệp. Chính những hành động này đã khiến nhiều quốc gia buộc lòng phải triển khai các biện pháp an ninh nghiêm ngặt để bảo vệ lợi ích của mình.
Các quốc gia phản ứng ra sao?
Theo Cơ quan Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI), TQ đã đánh cắp các công nghệ và dữ liệu nghiên cứu nhạy cảm nhằm tăng cường sức mạnh quân sự. Sáng kiến Trung Hoa (China Initiative) đã được triển khai dưới thời chính quyền Trump nhằm truy quét gián điệp và tội phạm trộm công nghệ. Dưới thời Biden, dù chương trình này không còn sử dụng tên cũ, nhưng áp lực vẫn không giảm bớt.
Đạo luật Chips and Science năm 2022 yêu cầu Quỹ Khoa học Quốc gia (National Science Foundation – NSF) thành lập một trung tâm tên là “SECURE.” Trung tâm này có nhiệm vụ hỗ trợ các trường đại học và công ty nhỏ trong việc đưa ra quyết định dựa trên các thông tin và yếu tố liên quan đến an ninh nghiên cứu. Giáo sư Wagner cũng có tham gia, làm việc với SECURE để đánh giá hiệu quả hoạt động của trung tâm.
Không chỉ Hoa Kỳ, nhiều quốc gia tiên tiến khác cũng đang đề cao cảnh giác. Liên Âu đã khuyến khích các quốc gia thành viên tăng cường các biện pháp an ninh nghiên cứu. Nhật Bản đã hợp tác với Hoa Kỳ, công bố nhiều biện pháp sâu rộng nhằm bảo vệ các nghiên cứu nhạy cảm khỏi sự can thiệp và khai thác từ nước ngoài.
Các quốc gia Âu Châu cũng ngày càng nhấn mạnh vai trò của chủ quyền công nghệ như một cách để giảm bớt nguy cơ từ TQ. Tương tự, nhiều quốc gia Á Châu cũng tỏ ra thận trọng khi Bắc Kinh ngỏ ý hợp tác.
Úc là một trong những quốc gia lên tiếng thẳng thắng nhất, mạnh mẽ nhất về mối đe dọa từ sự trỗi dậy của TQ. Nhiều nước khác cũng đã có hành động. Hà Lan đã ban hành một chính sách về hợp tác quốc tế an toàn trong nghiên cứu. Thụy Điển thì gióng lên hồi chuông báo động sau khi có một nghiên cứu phát hiện gián điệp đang lợi dụng các trường đại học của họ để thu thập thông tin.
Canada thành lập hẳn Trung tâm An ninh Nghiên cứu (Research Security Centre). Tương tự như Hoa Kỳ, họ cũng đã bổ nhiệm các cố vấn tại nhiều khu vực để hỗ trợ trực tiếp các trường đại học và nhà nghiên cứu. Ngoài ra, Canada hiện bắt buộc tiến hành đánh giá nguy cơ đối với tất cả các quan hệ đối tác nghiên cứu liên quan đến những công nghệ nhạy cảm. Các biện pháp tương tự cũng đang được thực hiện tại Úc và Anh.
Tại Đức, những quy định mới ban hành năm 2023 yêu cầu thành lập các đơn vị đảm bảo tuân thủ và các ủy ban đạo đức để giám sát những nghiên cứu liên quan đến an ninh. Các đơn vị này chịu trách nhiệm tư vấn cho nhà nghiên cứu, hòa giải tranh chấp và đánh giá tác động đạo đức lẫn an ninh của mỗi dự án nghiên cứu. Họ tập trung vào việc triển khai những biện pháp bảo vệ, kiểm soát chặt chẽ các dữ liệu nhạy cảm, và ngăn chặn mọi nguy cơ lạm dụng dữ liệu.
Với Nhật Bản, chính sách năm 2021 buộc nhà nghiên cứu phải công khai và thường xuyên cập nhật mọi thông tin liên quan đến các tổ chức liên kết, nguồn tài trợ (dù là trong nước hay quốc tế) và những xung đột lợi ích tiềm ẩn. Một hệ thống quản trị R&D liên bộ cũng đã được triển khai để tổ chức các buổi hội thảo và đào tạo, hỗ trợ các khoa học gia và các tổ chức hiểu rõ những nguy cơ mới cũng như phương thức tối ưu để đảm bảo an ninh nghiên cứu.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cũng đang có một cơ sở dữ liệu với hơn 206 tuyên bố chính sách an ninh nghiên cứu được ban hành kể từ năm 2022.
Chẳng còn cởi mở
Tuy nhiên, việc đặt nặng yếu tố an ninh cũng có nguy cơ làm giảm nhiệt huyết hợp tác quốc tế – yếu tố cốt lõi thúc đẩy tiến bộ khoa học. Trên thực tế, có đến 25% số bài báo khoa học của Hoa Kỳ được phát triển từ hợp tác quốc tế. Nhiều bằng chứng chỉ ra rằng việc gắn kết và cởi mở với cộng đồng quốc tế giúp tạo ra những nghiên cứu khoa học có tầm ảnh hưởng lớn hơn, và các khoa học gia xuất sắc nhất thường làm việc xuyên biên giới.
Hơn thế nữa, nền khoa học thế giới phụ thuộc vào dòng chảy tự do của ý tưởng và nguồn nhân lực chất lượng cao vượt qua mọi rào cản địa lý. Sau Chiến tranh Lạnh, khoa học tiến bộ nhanh hơn khi cánh cửa hợp tác giữa các nước được rộng mở. Mặc dù số lượng nghiên cứu nội địa không tăng nhiều trong thời gian qua, nhưng hợp tác quốc tế lại tăng trưởng mạnh mẽ, phản ánh khuynh hướng “toàn cầu hóa” của khoa học ngày nay.
Các tổ chức nghiên cứu đang đối mặt với thách thức lớn trong việc áp dụng các yêu cầu mới mà không tạo ra bầu không khí nghi kỵ và cô lập. Bởi nếu các quốc gia cứ mãi “co cụm” trong đường biên giới của mình, tiến bộ khoa học của nhân loại rất có thể sẽ chậm lại. Sự cởi mở trong nghiên cứu khoa học sẽ luôn tiềm ẩn nguy cơ, và đáng buồn thay, có lẽ chúng ta đang dần bước đến hồi kết của kỷ nguyên hợp tác toàn cầu trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Nguyên Hòa biên dịch
Nguồn: “Can science be both open and secure? Nations grapple with tightening research security as China’s dominance grows” được đăng trên trang TheConversation.com.
Gửi ý kiến của bạn