Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Đức Phật Dạy Vô Tâm Là Đạo

24/07/202407:53:00(Xem: 1524)
blank 

Đức Phật Dạy Vô Tâm Là Đạo

Nguyên Giác

  

Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm. Cách diễn tả như thế có vẻ như như để làm nổi bật hai ý chỉ khác nhau, rằng Thiền do Như Lai dạy chủ yếu là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp… trong khi Thiền do các vị Tổ Sư Trung Hoa và Việt Nam dạy chủ yếu là vô niệm, vô tâm. Sự thật, Đức Phật trong Tạng Pali đã dạy các pháp vô niệm, vô tâm… nhưng nhiều vị sư đời sau không chú ý, và đôi khi còn ngộ nhận rằng pháp vô niệm, vô tâm là sáng tác của các vị sư Trung Hoa.
 
Có lẽ câu thơ nổi tiếng nhất trong Thiền Tông Việt Nam là của ngài Trần Nhân Tông, rằng “Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền,” nghĩa là, khi gặp tất cả các cảnh trong và ngoài, tâm vẫn là rỗng rang và vắng lặng, thì không cần gì tu nữa. Khi đọc kỹ Tạng Pali, chúng ta sẽ thấy trong nhiều Kinh (đặc biệt là phần lớn Kinh trong Phẩm 4 và Phẩm 5 của Kinh Tập trong Tiểu Bộ Kinh) rằng Đức Phật đã dạy rằng vô tâm chính là đạo, là con đường giải thoát. Nói như thế, không có nghĩa là phân biệt pháp này hay pháp kia cao hay thấp, chỉ muốn nói rằng Đức Phật là vị đại y vương, tùy bệnh cho thuốc.
 
Không chỉ phần lớn các sư không còn tu học theo lời Phật dạy về vô niệm, vô tâm… (thậm chí có sư còn dám nói sai lầm rằng tứ niệm xứ là pháp duy nhất) nhiều vị sư cũng không nhắc tới một số lời dạy khác của Đức Phật. Thí dụ, chúng ta không còn nghe nhiều về pháp quán bất tịnh, pháp niệm tăng, pháp niệm thí, pháp niệm thiên… trong khi chỉ cần một pháp quán niệm đó là đủ để giải thoát.
 
Đức Phật dạy rằng chỉ cần một pháp trong các pháp sau là đủ để giải thoát, theo bản dịch Kinh AN 1.296-305 của Thầy Minh Châu:
 
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đế nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Pháp… niệm Tăng… niệm Giới… niệm Thí… niệm Thiên… niệm Hơi thở vô, Hơi thở ra… niệm Chết… niệm Thân… niệm An tịnh. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.” (1)
 
Trong khi đó, Đức Phật dạy trong Kinh SN 22.64 rằng vô niệm (không suy tưởng) là con đường vắn tắt (Dhamma in brief) để giải thoát. Kinh này khởi đầu bằng “Rồi một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, lành thay, Thế Tôn hãy thuyết pháp tóm tắt cho con...” và chuỗi đối thoại này ghi lời Phật dạy rất minh bạch, không mơ hồ (độc giả nào ngờ vực, có thể đối chiếu các bản tiếng Anh sẽ thấy rõ nghĩa hơn). Trích bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:
 
“— Ai suy tưởng, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.
— Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.
— Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt:
— Ai suy tưởng sắc, bạch Thế Tôn, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai suy tưởng thọ … tưởng … hành … thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
— Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Như vậy Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời nói vắn tắt này của Ta. Này Tỷ-kheo, ai suy tưởng sắc, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai suy tưởng thọ … tưởng … các hành … Ai suy tưởng thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Này Tỷ-kheo, lời nói vắn tắt này của Ta cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.” (2)
 
Nói ngắn gọn, lời Đức Phật dạy là đừng suy nghĩ tư lường gì hết. Hễ suy tưởng đúng hay sai, xanh hay đỏ, trắng hay vàng… là hỏng.
 
Bản dịch Sujato: “When you conceive, mendicant, you’re bound by Māra. Not conceiving, you’re free from the Wicked One.”
 
Bản dịch Bodhi: “Bhikkhu, in conceiving one is bound by Mara; by not conceiving one is freed from the Evil One.”
 
Nhà sư Nguyễn Thế Đăng giải thích qua bài viết nhan đề “Vô Niệm Của Lục Tổ Huệ Năng” trích như sau:
 
Luận Đại thừa Khởi tín của ngài Mã Minh nói: ‘Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp. Pháp giới Một tướng này tức là Pháp thân bình đẳng của chư Như Lai. Pháp thân này tất cả chúng sanh vốn có, nên gọi là Bản giác.’
Luận nói tiếp: ‘Thế nên chúng sanh nào quán sát vô niệm thì chúng sanh đó đã hướng về Trí Phật.’” (3)
 
Bất kỳ ai cũng có thể thực tập pháp vô niệm. Trong Kinh Lăng Nghiêm chú trọng nói về tánh nghe, vì từ nghe là cách dễ vào đạo nhất. Trong khi bạn nghe (thí dụ, nghe chim hót, nghe mưa rơi), bạn sẽ không níu được âm thanh nào của quá khứ và hiện tại (vì âm thanh luôn luôn biến mất trong từng khoảnh khắc), và bạn sẽ không nghĩ gì tới được tương lai (âm thanh chưa tới và có thể sẽ không tới). Đó là bạn đang sống với tâm xa lìa ba thời (quá, hiện, vị lai), xa lìa ngũ uẩn của ba thời. Đó là Kinh Bahiya: khi cái được thấy chỉ là cái được thấy và cái được nghe chỉ là cái được nghe, và đó là giải thoát. Đức Phật dạy rất minh bạch như thế. Không cần khởi niệm gì hết.
 
Thậm chí, trong Kinh SN 4.19, Đức Phật còn rầy những người ưa khởi niệm và gọi đó là trò của ma. Bản dịch Thầy Minh Châu viết, trích:
 
Này Ác ma, ý là của Ông, pháp là của Ông, thức xứ do ý xúc chạm là của Ông. Và này Ác ma, chỗ nào không có ý, không có pháp, không có thức xứ do ý xúc chạm, thời này Ác ma, chỗ ấy không có hành xứ của Ông, này Ác ma.” (4)
 
Đọc hai bản dịch tiếng Anh, chúng ta sẽ kinh ngạc vì Đức Phật nói y hệt ngài Huệ Năng, Lâm Tế, rằng khởi tâm tức là chuyện của đường ma, cửa quỷ.
Bản dịch Bodhi: “The mind is yours, Evil One, mental phenomena are yours, mind-contact and its base of consciousness are yours; but, Evil One, where there is no mind, no mental phenomena, no mind-contact and its base of consciousness—there is no place for you there, Evil One.” (Nơi đây, chúng ta dịch: Ác Ma, tâm là của ngươi, hiện tượng tâm là của ngươi, xúc của tâm và cõi ý thức của nó là của ngươi; nhưng, này Ác Ma, nơi không có tâm, nơi không có hiện tượng tâm, nơi không có xúc của tâm và cõi ý thức của nó – thì không có chỗ cho ngươi nơi đó, hỡi Ác Ma.”
 
Bản dịch Sujato: “…yours are ideas, yours is the field of mind contact consciousness. Where there is no mind, no ideas, no mind contact consciousness—you have no place there, Wicked One!” (…của ngươi là các niệm, của ngươi là cõi ý thức sinh khởi từ xúc của tâm. Nơi nào không có tâm, không có niệm, không có cõi ý thức sinh khởi từ xúc của tâm – thì ngươi không có chỗ nơi đó, hỡi Ác Ma!”
 
Tại sao vô tâm, vô niệm? Tại sao Đức Phật nói vô tâm là con đường giải thoát vắn tắt? Đơn giản, vì chúng sinh không có ai thực sự vô tâm được. Và người nào vô tâm được, ngay khi đó là xa lìa tham sân si. Trong Kinh SN 35.90, Đức Phật dạy rằng không nghĩ ngợi tới bất cứ cái gì, thì sẽ không chấp thủ (nắm giữ) bất cứ cái gì, thì tự tâm sẽ tịch lặng. Bản dịch Thầy Minh Châu, trích:
 
Chớ có nghĩ đến tất cả, chớ có nghĩ đến trong tất cả, chớ có nghĩ đến từ tất cả, chớ có nghĩ đến: “Tất cả là của tôi”. Vị ấy do không nghĩ đến nên không chấp thủ một vật gì ở đời. Do không chấp thủ, vị ấy không có dao động (paritassati). Do không dao động, vị ấy tự mình tịch tịnh một cách hoàn toàn. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”…” (5)
 
Tương tự, các bản dịch tiếng Anh của kinh này cũng rất rõ ràng, không có nghĩa nào mơ hồ. Hễ nghĩ ngợi tư lường là bị trói giữ.

 
Đối với người đã buông bỏ hết thấy, nghe, hay, biết, buông bỏ hết nghĩ ngợi tư lường, thì vị đó đã vượt qua cả thiện và ác. Chúng ta sẽ thấy ngôn phong Tâm Kinh và Kinh Kim Cang hiển lộ trong Kinh SN 35.248 khi Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:
 
Ai có tư tưởng (Mannamàna), người ấy bị Māra trói buộc. Ai không có tư tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. “Tôi là”, này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. “Cái này là tôi”, này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. “Tôi sẽ là”, này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. “Tôi sẽ không là”, là một tư tưởng. “Tôi sẽ có sắc”, là một tư tưởng. “Tôi sẽ không có sắc”, là một tư tưởng. “Tôi sẽ có tưởng”, là một tư tưởng. “Tôi sẽ không có tưởng”, là một tư tưởng. “Tôi sẽ không có tưởng và không không có tưởng”, là một tư tưởng. Có tư tưởng, này các Tỷ-kheo, là tham. Có tư tưởng là mụt nhọt. Có tư tưởng là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các ông cần phải học tập: “Tôi sẽ sống với tâm không có tư tưởng.”(6)
 
Trong khi đó, Kinh SN 35.133 nói y hệt Bát Nhã Tâm Kinh, rằng phải sống trong nhận biết rằng không hề có mắt hiện hữu, không hề có tai hiện hữu… [cho tới] không hề có tâm ý hiện hữu thì đó là Niết Bàn. Đó là lời dạy của Tôn giả Udāyi dạy cho một vị nữ Bà-la-môn:
 
Này Chị, do mắt hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày lạc khổ. Do mắt không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ … Do ý hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày lạc khổ. Do ý không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ.” (7)
 
Đoạn Kinh vừa dẫn trong bản dịch tiếng Anh của Bodhi rất dễ hiểu: “Sister, the arahants maintain that when the eye exists there is pleasure and pain, and when the eye does not exist there is no pleasure and pain. The arahants maintain that when the ear exists there is pleasure and pain, and when the ear does not exist there is no pleasure and pain…. The arahants maintain that when the mind exists there is pleasure and pain, and when the mind does not exist there is no pleasure and pain.”
 
Nơi đây, xin dịch là: “Chị ơi, các vị A-la-hán nói rằng khi mắt hiện hữu thì có vui sướng và đau khổ, và khi mắt không hiện hữu thì không có vui sướng và đau khổ. Các vị A-la-hán nói rằng khi tai hiện hữu thì có vui sướng và đau khổ, và khi tai không hiện hữu thì không có vui sướng và đau khổ …. Các vị A-la-hán nói rằng khi tâm hiện hữu thì có vui sướng và đau khổ, và khi tâm không hiện hữu thì không có vui sướng và đau khổ.”
 
Chữ “maintain” trong đoạn trên có nghĩa là “chủ trương rằng, nhận biết rằng, thấy rằng…” Như vậy, câu hỏi rằng, làm sao để thấy rằng không hề có mắt tai mũi lưỡi thân ý? Để thấy như thế, có nhiều cách. Đơn giản nhất là từ luật duyên khởi, vì thấy cái này có, nên cái kia có. Do vậy, các pháp tự thân đã xa lìa cả Có và Không. Không có gì cần nghĩ ngợi tư lường, hãy để ngôn ngữ dứt bặt, vì nói Có, nói Không đều sai.
 
Cũng y hệt tiếng đàn, có chẻ cây đàn ra trăm ngàn mảnh cũng không dò ra tiếng đàn nơi đâu. Nhưng tiếng đàn là từ cây đàn, từ mưa nắng qua nhiều năm cho gỗ rừng mọc lên, rồi thợ rừng cưa xuống để đóng thành cây đàn, từ nhạc sĩ học nhiều thập niên để trình diễn, từ rất nhiều duyên mới thành tiếng đàn. Không gọi tiếng đàn là Có, vì nó là từ nhiều duyên, vì vừa sinh đã liền diệt và vì chúng ta không chỉ ra được là nó ở đâu. Thân tâm chúng ta cũng thế, đừng tưởng mắt tai mũi lưỡi thân ý là Có, mà cũng đừng nói là Không. Các pháp chỉ là như thế, và như thế. Tất cả thân tâm và thế giới đang chảy xiết trong vô thường, không có cái gì gọi được là cái gì. Hiện tượng sát na vô thường được Tạng Pali so sánh với hạt đậu trên đầu mũi kim, nơi tất cả các pháp chỉ tiếp giáp với sát na chút xíu rồi biến mất.
 
Và bất kỳ ai tự thấy đang tắm gội thân tâm mình trong sát na vô thường đó, thì đó là thể nghiệm Niết Bàn, nơi đó xa lìa tất cả những gì gọi là tâm, ý và thức. Còn gọi là vô ngôn, vì ngôn ngữ và ý thức là dựa vào thời gian, dựa vào kinh nghiệm quá khứ. Nhưng khoảnh khắc của sát na thì xa lìa cả ba thời quá, hiện, vị lai. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Phẩm Cơ Duyên Thứ Bẩy, bản dịch của Thầy Thích Duy Lực,  ghi lời Lục Tổ Huệ Năng dạy ngài Chí Đạo, trích:
“...chơn lạc của Niết Bàn, sát na chẳng có tướng sanh, sát na chẳng có tướng diệt, cũng chẳng có sanh diệt để diệt, ấy tức là tịch diệt hiện tiền. Đang lúc hiện tiền, cũng chẳng có số lượng hiện tiền, nghĩa là chẳng có một tí khái niệm nào về không gian, thời gian, và số lượng của tịch diệt hiện tiền, mới gọi là thường đức, lạc đức, nghĩa là chơn vui. Vui này chẳng có kẻ thọ dụng, cũng chẳng có kẻ không thọ dụng...”(8)
 
Trong ngôn ngữ Phật học Việt Nam có một số chữ rất khó hiểu. Thí dụ, nói về cái được biết, thường chia làm ba chữ cho ba trường hợp: tưởng tri, thắng tri, liễu tri.
 
Đối chiếu với các kinh văn tiếng Anh, chúng ta thấy rằng:
 
. người phàm phu biết theo kiểu “tưởng tri” là "perceive" hay là "become aware or conscious of". Trong cái biết này chưa lìa tham sân si. Vì luôn luôn thấy có cái tôi đang biết, qua những lăng kính quá khứ, môi trường, xã hội…
 
. bậc tu học biết theo kiểu “thắng tri” là biết trực tiếp, là “directly know” hay “having directly known”  mà không nghĩ ngợi tư lường gì trong khi nhận biết, tức là biết của vô tâm, của ngay tức thời, của ngay ở đây và bây giờ. Kinh MN 1 ghi rằng, theo bản dịch Thầy Minh Châu: “…có Tỷ-kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: “Địa đại là của ta”,—không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại.” (9)
 
. bậc giải thoát biết theo kiểu “liễu tri” là biết đầy đủ, là “fully understand” – nghĩa là, khi nghe tiếng đàn, biết ngay là vô thường, vô ngã. Kinh MN 1 ghi về cái biết của các vị A La Hán, theo bản dịch Thầy Minh Châu: “...có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Địa đại là của ta” —không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri địa đại.” (9)
 
Nghĩa là, “thắng tri” (hay: biết trực tiếp) là rất gần với “liễu tri” (hay: biết đầy đủ, biết trong thực tướng của vô thường, vô ngã) và nơi đó cũng là đang lìa xa tham sân si. Đó là cái biết của Kinh Bahiya, khi cái được thấy chỉ là cái được thấy, và cái được nghe chỉ là cái được nghe. Nơi đó, tâm thường trực  rỗng rang, tịch lặng. Cái biết của thắng tri và liễu tri chính là cái biết của vô tâm, vô niệm.
 
Nghĩa là, không có việc gì phải mài ngói làm gương. Tuệ Trung Thượng Sĩ viết đơn giản rằng việc tu thiền chỉ có nghĩa là trâu bùn lội qua sông. Vì là trâu bùn, nên trâu sẽ tan trong nước, và đó là lời dạy của Đức Phật, rằng vô tâm chính là đạo. Khi chư tổ nói rằng vô tâm chưa phải là đạo, vì còn cần bước qua một trùng quan nữa, đó chính là từ thắng tri bước vào liễu tri, là hình ảnh trâu bùn tan vào nước, chứng nhập vô ngã, vô thường.
 
GHI CHÚ:
(3) Nguyễn Thế Đăng, “Vô Niệm Của Lục Tổ Huệ Năng”: https://thuvienhoasen.org/a18917/vo-niem-cua-luc-to-hue-nang
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
HOA KỲ – Hôm thứ Năm (22/8), Neuralink, công ty nghiên cứu cấy ghép não của Elon Musk, cho biết con chip được cấy ghép trong não bộ của bệnh nhân thử nghiệm thứ hai đang hoạt động tốt, theo Reuters.
Cuối tuần vừa qua tôi đi dự hội thảo về Việt Nam tại Bảo tàng Bowers ở thành phố Santa Ana, thủ phủ của Quận Cam. Hai ngày hội thảo với hai chủ đề có liên quan với nhau là Cải cách Ruộng đất 1953-56 và Di cư 1954. Xong ngày đầu của hội thảo, đi ăn tối với một bạn sống ở Quận Cam từ năm 1978, khi biết chủ đề là về cải cách ruộng đất, bạn hỏi ngay: “Có hình Hồ Chí Minh cầm khăn khóc không?”. Bạn tôi ít quan tâm đến sinh hoạt cộng đồng nhưng cũng biết sử Việt vì là con trong gia đình bắc di cư 54, lớn lên tại miền Nam và sống ở đó cho đến khi vượt biển. Hình Hồ Chí Minh khóc và sự kiện bà Nguyễn Thị Năm đóng góp nhiều vàng cho Việt Minh rồi cũng bị đấu tố trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam từ 1953 đến 1956 có lẽ là những hiểu biết cơ bản của nhiều người Việt, dù không chứng kiến hay trực tiếp là nạn nhân trong sự việc. Những hình ảnh đó hôm nay cũng đã được trưng bày tại Bảo tàng Bowers và có trong bài nói chuyện của diễn giả tại hội thảo.
HOA KỲ – Hôm thứ Tư (21/8), Tòa thượng thẩm Florida cho phép các kinh tế gia của tiểu bang cảnh báo cử tri rằng việc thêm quyền phá thai vào hiến pháp có thể làm giảm nguồn thu nhập của tiểu bang, đồng thời bác bỏ vụ kiện của nhóm ủng hộ quyền phá thai đứng sau đề nghị này, theo Reuters.
Thành Phố Garden Grove hiện đang nhận đơn trực tuyến cho các vị trí cảnh sát tuyên thệ (sworn) và không tuyên thệ (non-sworn.) Hạn chót nộp đơn là Thứ Năm, 29 Tháng Tám, 2024.
Đêm nay, Thứ Tư 21/8/2024, và là Ngày 3 của Đại Hội Dân Chủ Toàn Quốc DNC. Trong bài phát biểu nhận đề cử tại hội nghị tối nay, Walz sẽ giới thiệu bản thân với người dân Mỹ bằng cách nêu bật những giá trị mà ông học được khi lớn lên tại một thị trấn nhỏ ở Nebraska
Buổi họp báo nhắc nhở sinh viên đại học cộng đồng California về ngày 3 tháng 9 2024 là thời hạn chót để nộp đơn xin hỗ trợ tài chính thông qua FAFSA hoặc Đạo Luật Giấc Mơ California (California Dream Act, CADAA).
WASHINGTON – Hôm thứ Ba (20/8), Tòa Bạch Ốc cho biết kế hoạch về chiến lược nguyên tử được Tổng thống Joe Biden chuẩn thuận trong năm nay không nhằm đối phó với một quốc gia hay mối đe dọa riêng lẻ nào, theo Reuters. Trước đó, tờ New York Times loan tin rằng kế hoạch mật này có sự điều chỉnh chiến lược răn đe của Hoa Kỳ để tập trung vào mối đe dọa từ việc Trung Quốc mở rộng kho vũ khí nguyên tử.
KYIV – Hôm thứ Ba (20/8), các nhà lập pháp Ukraine đã thông qua luật cấm các hoạt động của nhánh giáo hội Chính Thống Giáo (Orthodox) có liên quan tới Nga và được cho là đã tiếp tay cho Moscow trong cuộc chiến ở Ukraine, theo Reuters.
Một nguồn tin quân sự cho biết một người lính Bắc Hàn đã đào tỵ sang Nam Hàn vào sáng sớm thứ Ba, sau khi vượt qua biên giới liên Triều, theo như Yonhap trích dẫn. Người lính này được cho là một trung sĩ tham mưu đã đến miền Nam trong lãnh thổ do Sư đoàn 22 giám sát, hoạt động tại quận Goseong thuộc tỉnh Gangwon, gần biên giới với miền Bắc.
WASHINGTON – Hôm thứ Hai (19/8), tòa án đã từ chối yêu cầu của Hunter Biden, con trai của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, về việc hủy bỏ vụ án trốn thuế ở California, theo Reuters.
SEOUL – Hôm thứ Ba (20/8), hãng tin Yonhap dẫn nguồn tin từ quân đội Nam Hàn nói rằng một người lính Bắc Hàn đã vượt qua khu phi quân sự dọc vĩ tuyến 38 để trốn sang Nam Hàn, theo Reuters.
TQ tuyên bố các tàu Philippines đã phớt lờ các cảnh báo liên tục và rằng họ "cố tình" va chạm với tàu TQ. Philippines cáo buộc tàu TQ thực hiện "các hành động phi pháp và hung hăng".
HOA KỲ – Chủ Nhật (18/8), Trung Tâm Báo Bão Quốc Gia (National Hurricane Center, NHC) cảnh báo bão Ernesto đã mạnh trở lại và gây ra nhiều dòng nước rút (rip currents) nguy hiểm trên các bãi biển ở khu vực Bờ Đông (East Coast) của Hoa Kỳ và ở Canada, theo Reuters.
BẮC KINH – Hôm thứ Hai (19/8), Lực lượng Duyên phòng TQ (China's Coast Guard) cho biết một tàu của Phi Luật Tân đã phớt lờ những cảnh báo và “cố tình va chạm” với tàu của họ một cách “nguy hiểm và không chuyên nghiệp ” ở Biển Đông, theo Reuters.
Alain Delon, nam diễn viên người Pháp được ca ngợi trên toàn thế giới, người đã vào vai cả kẻ xấu và cảnh sát, khiến trái tim mọi người trên thế giới phải thổn thức, đã qua đời ở tuổi 88, theo gia đình ông chia sẻ với truyền thông Pháp.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.