Trên trang mạng vietcatholic.net vào ngày 24/06/2022 có đăng bản dịch tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đáp lại việc Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ra phán quyết bác bỏ phán quyết Roe vs. Wade, trong đó có đoạn:
“Đây là một ngày lịch sử trong cuộc đời của đất nước chúng ta, một ngày làm xúc động những suy nghĩ, cảm xúc và những lời cầu nguyện của chúng ta. Trong gần năm mươi năm, Hoa Kỳ đã thực thi một luật bất công cho phép một số người quyết định xem những người khác có thể sống hay chết. Chính sách này đã dẫn đến cái chết của hàng chục triệu trẻ sơ sinh, những thế hệ bị từ chối quyền được sinh ra”.
“Nước Mỹ được thành lập dựa trên sự thật rằng tất cả nam giới và phụ nữ đều được tạo ra bình đẳng, với các quyền được Chúa ban cho cuộc sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Sự thật này đã bị phủ nhận một cách đau buồn bởi phán quyết Roe kiện Wade của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, là phán quyết đã hợp pháp hóa và bình thường hóa việc lấy đi mạng người vô tội. Hôm nay chúng ta tạ ơn Chúa vì Tòa án đã lật lại quyết định này. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho các quan chức được bầu của chúng ta bây giờ sẽ ban hành luật và chính sách thúc đẩy và bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất trong số chúng ta”.
“Suy nghĩ đầu tiên của chúng tôi là với những đứa trẻ nhỏ bé đã bị cướp đi mạng sống kể từ năm 1973. Chúng tôi thương tiếc sự mất mát của họ, và chúng tôi giao phó linh hồn của họ cho Chúa, Đấng đã yêu thương họ từ trước đó và sẽ yêu thương họ đến muôn đời. Trái tim của chúng tôi cũng ở với mọi phụ nữ và nam giới đã phải chịu đựng đau buồn vì phá thai; chúng tôi cầu nguyện cho sự chữa lành của họ, và chúng tôi cam kết sẽ tiếp tục cảm thông và hỗ trợ …”
Hoàn toàn tôn trọng đức tin Ky Tô Giáo, người viết chỉ xin đưa ra một vài suy nghĩ với tư cách của một công dân đất nước của Nữ Thần Tự Do, mà không đứng trên góc nhìn của bất kỳ một tôn giáo nào.
“…những thế hệ bị từ chối quyền được sinh ra…”. Nếu có “quyền được sinh ra”, thì chắc chắc khái niệm về “quyền được không sinh ra” cũng sẽ tồn tại và nên được xem xét. Không ai chắc chắn những bào thai sẽ lựa chọn ra sao trước hai quyền nói trên. Theo luật nước Mỹ, một công dân đến 18 tuổi mới được quyền đi bầu. Như vậy, một đứa trẻ phải đến bao nhiêu tuổi để có thể tự quyết định rằng mình có nên có mặt trên cõi đời này hay không?
Tôi có một cô bạn thân, là một người thành đạt trong xã hội Mỹ. Ấy vậy mà cô đã từng tâm sự rằng lẽ ra cha mẹ không nên sinh cô ra trên cõi đời này. Giờ đây, sau khi đã sống non nửa cuộc đời, nếu được hỏi ý kiến trước khi ra đời, cô sẽ lựa chọn “không”! Không có một thống kê nào về sự lựa chọn này, nhưng chắc chắn sự lựa chọn của cô bạn tôi không phải là người duy nhất. Một nhà giáo dạy triết ở Sài Gòn ngày xưa đã mô tả vắn tắt về một số người theo chủ nghĩa hiện sinh ở các nước Âu Mỹ vào thập niên 60: họ sinh ra không được hỏi ý kiến, lớn lên theo sự định hướng của gia đình, đi học trong một hệ thống giáo dục đã có sẵn, sinh hoạt làm việc trong một khuôn phép xã hội đã định hình. Như vậy đâu là sự tự do lựa chọn cho bản thân của họ? Một số người tin rằng chỉ có cái chết là thực sự nằm trong tay quyết định của mình! Ở đây không phê phán lối suy nghĩ này đúng hay sai, đạo đức hay không đạo đức, mà chỉ để cho thấy câu hỏi “có nên sinh ra đời?” không chỉ có một câu trả lời duy nhất đúng cho mọi người.
“…Trong gần năm mươi năm, Hoa Kỳ đã thực thi một luật bất công cho phép một số người quyết định xem những người khác có thể sống hay chết…” Trở lại với những đứa trẻ chưa sinh ra, khi chúng ta không biết chắc về sự lựa chọn của họ, thì ai sẽ là người xứng đáng nhất có quyền đưa ra quyết định khó khăn này? Nếu bỏ qua yếu tố niềm tin tôn giáo, và xét riêng ở nước Mỹ là quốc gia mà quyền tự do cá nhân là điều thiêng liêng, quan trọng hơn bất cứ quốc gia nào khác trên hành tinh này, thì có lẽ không ai có đủ thẩm quyền quyết định hơn chính người phụ nữ đang mang thai, người cũng sẽ chịu trách nhiệm mang nặng đẻ đau nếu sau này đứa bé chào đời.
Một ngày sau khi phán quyết của Tối Cao Pháp Viện, một nhà truyền thông gốc Việt, cũng là một người Công Giáo thuần thành đã đưa tin này. Ông không bình luận phán quyết đúng hay sai, mà chỉ nói đại ý rằng khi ra một phán quyết như vậy, thì chúng ta không nên chỉ đứng trên góc nhìn của riêng mình, mà nên thử đặt mình trong vị trí của những người phụ nữ đang ra quyết định khó khăn đó. Thực sự họ nghĩ gì? Tại sao họ phải lựa chọn như vậy? Có phải họ không có tình thương yêu dành cho mầm sống mà chính mình đang cưu mang?
Cách đây hơn hai mưới năm, hồi còn ở Việt Nam, vợ tôi phải đi chụp quang tuyến vài lần thì mới biết mình đã có mang. Lúc đó vợ tôi rất muốn có con, nhưng cũng biết rằng tia phóng xạ có thể gây ra dị tật bẩm sinh cho đứa con tương lai của mình. Tôi nhớ chưa bao giờ vợ tôi khổ sở như lúc đó, vì không biết phải quyết định như thế nào cho đúng với cả mặt y học, đạo đức lẫn tinh thần. Để con chào đời với dị tật bẩm sinh thì sẽ tự cắn rứt lương tâm cả đời vì mình đã có thể tránh được lỗi lầm này mà không làm, chưa cần kể tới nỗi ân hận khi nghe con trách sao để nó ra đời trong nghịch cảnh như vậy. Sau nhiều ngày trăn trở, cuối cùng vợ tôi cũng đã đi đến quyết định không giữ bào thai đó nữa. Tôi nhớ vợ tôi đã khóc nhiều lần sau khi trở về từ bệnh viện Từ Dũ. Rất lâu sau đó, dù không bao giờ nhắc lại chuyện này, nhưng tôi biết vợ tôi vẫn suy tư nhiều về quyết định của mình. Chúng tôi cũng có niềm tin tôn giáo, cũng biết yêu quí sự sống. Cá nhân tôi hoàn toàn tôn trọng quyết định này của vợ mình, và tin rằng đó là một quyết định hợp lý về cả mặt khoa học và đạo đức.
Tự do tôn giáo là một quyền tự do quan trọng của người Mỹ. Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ hoàn toàn có quyền kêu gọi những tín đồ của mình thực hành đức tin về việc bảo vệ sự sống. Tương tự, tín đồ của các tôn giáo khác cũng được quyền thể hiện đức tin của mình. Và cả những người không theo bất cứ một tôn giáo nào cũng có quyền thể hiện niềm tin vào khoa học trong các chuẩn mực đạo đức có liên quan đến sự sống.
Về mặt pháp lý, Tối Cao Pháp Viện ngày hôm nay lật ngược lại phán quyết của một Tối Cao Pháp Viện của năm 1973 không hoàn toàn loại bỏ quyền phá thai của phụ nữ, mà chỉ giao nó về cho tiểu bang quyết định. Nhưng nó là biểu tượng cho một nghịch lý đã tồn tại từ rất lâu trong xã hội Mỹ mà đến thế kỷ 21 này vẫn còn tranh cãi: trong khi quyền sở hữu súng sát thương hàng loạt vẫn là một quyền tự do bất khả xâm phạm vẫn được bảo vệ trên toàn quốc, thì quyền tự do quyết định về thân thể của người phụ nữ lại chỉ là một sự lựa chọn tùy thuộc vào chính quyền của từng tiểu bang.
Phán quyết của Tối Cao Pháp Viện ngày hôm nay cũng không phải là không thể đảo ngược. Nếu TCPV 2022 xét lại phán quyết của TCPV 1973, thì có thể một TCPV 20xx nào đó cũng sẽ làm điều tương tự trong tương lai.
Đối với những người Mỹ muốn bảo vệ quyền phá thai của phụ nữ, họ vẫn có thể thay đổi mọi chuyện bằng lá phiếu của mình. Chính quyền các tiểu bang chống phá thai có thể thay đổi bằng lá phiếu. Thành phần Tối Cao Pháp Viện được đề cử bởi tổng thống, chuẩn thuận bởi thượng viện cũng có thể thay đổi bằng lá phiếu. Quyền bỏ phiếu là công cụ để định hướng đất nước đi theo ý nguyện mà đại đa số người dân Hoa Kỳ mong muốn.
Dân Việt