“Phật giáo Việt Nam và Tây Tạng đang gặp hiểm nạn!” Đó là tựa đề một phúc trình được công bố bởi Giáo sư Tenzin Dorjee, Chủ tịch Ủy Ban Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Thế Giới (USCIRF), tại một hội nghị quan trọng đối với chính sách ngoại giao của nước Mỹ.
Hội nghị này được tổ chức tại thủ đô Hoa Kỳ ngày 11 tháng 7/2018, với mục đích trình bày cho Quốc hội Mỹ, các vị lãnh đạo và chuyên gia về tình hình tôn giáo toàn cầu, góp phần vào việc soạn thảo phúc trình hàng năm về tự do tôn giáo. Thông điệp từ hội hội nghị có tựa đề Freedom of Religion or Belief & Human Rights: Vietnamese and Tibetan Buddhism under threat (Tự do Tôn giáo hay Đức Tin và Nhân Quyền: Phật Giáo Việt Nam và Tây Tạng bị đe dọa.)
Vị chủ tịch USCIRF nói, “Chỉ đơn giản ghi nhận sự bất công là chưa đủ. Chúng ta phải khuyến khích chính phủ Mỹ và các chính phủ khác làm nhiều hơn.” Và những phương cách bảo vệ tự do tôn giáo toàn cầu đã được đề cập, đặc biệt là ở Tây Tạng và Việt Nam.
USCIRF được thành lập bởi Quốc Hội Hoa Kỳ. Dr. Tenzin Dorjee được bổ nhiệm vào Ủy ban này ngày 8 tháng 12/2016 bởi Dân biểu Nancy Pelosi và từ 12 tháng 6/2018, ông được thống nhất bầu vào chức Chủ Tịch. Mới đây Đảng Dân Chủ thắng lớn, giành lại được Hạ Viện và từ 2019, bà Nancy Pelosi là Chủ Tịch Hạ Viện.
Từ một em bé được ba mẹ cõng đi băng rừng, vượt núi từ Tây Tạng sang Ấn Độ tỵ nạn, sau trung học là vào tu học nơi đại học do Đức Đạt Lai Lạt Ma thiết lập, trở thành học giả và là dịch giả trong Thư Viện Phật Giáo Tây Tạng, được gửi sang Hoa Kỳ giúp chư tăng hoằng pháp.
Tại Hoa Kỳ, ông tốt nghiệp Tiến sĩ tại Đại học UC Santa Barbara, trở thành giáo sư đại học, đảm nhận công việc tham vấn và thông dịch bên Đức Đạt Lai Lạt Ma trong nhiều chuyến đi, trở thành nhà hoạt động nhân quyền, và bây giờ đang giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (USCIRF). Đó là sơ lược cuộc đời của Tiến sĩ Tenzin Dorjee.
Có nhiều người Tây Tạng trùng tên với Tenzin Dorjee, cũng y hệt như ở Việt Nam có nhiều người trùng tên. Nhưng cuộc đời của Tenzin Dorjee là hy hữu, độc đáo.
Lần đầu tôi gặp GS Tenzin là khi anh đi bên cạnh Đại sư Geshe Gyeltsen, được gọi tắt là Geshela, người sáng lập Tu viện Thubten Dhargye Ling (viết tắt: TDL) ở Long Beach, Nam California. Ngài Geshela là Thầy của nhà văn Nhã Ca, sau đó Bà được hướng dẫn sang Dharamshala tu học thêm với Đức Đạt Lai Lạt Ma và Tenzin thành người thân của gia đình Việt Báo. Bình thường, chúng tôi gọi tắt là “anh Tenzin”.
Tu viện TDL cũng là nơi Don Phạm, một thiếu niên gốc Việt tại Quận Cam, được chuẩn bị để chuyển sang Ấn Độ tu học trong các tu viện của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhật báo OC Register sau đó đã cử phái viên sang tận nơi thực hiện loạt bài đăng nhiều kỳ trên báo. Cậu bé Quận Cam ngày ấy bây giờ đã là một vị tăng 33 tuổi, sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ Phật Học, vẫn đang tiếp tục tu học sâu thêm và nhập thất dài hạn.
Tại Đại học CSU Fullerton (CSUF), nơi GS Tenzin giảng dạy và nghiên cứu về truyền thông liên thế hệ, liên văn hóa, các vấn đề bản sắc, và những phương cách giải quyết xung đột, ông đã đã nhận nhiều giải thưởng – trong đó có giải vinh danh về giảng dạy (2011), nghiên cứu (2013) và phục vụ cộng đồng (2015).
Tenzin Dorjee cũng là tác giả nhiều bài viết trên các tạp chí đa văn hóa, nhiều sách về các vấn đề văn hóa, bên cạnh các công trình dịch nhiều kinh luận từ tiếng Tây Tạng sang Anh văn. Trong nỗ lực nghiên cứu và vận động cho tự do tôn giáo, GS Tenzin đã tới Miến Điện và Iraq để quan sát về tình hình tại chỗ và từng điều trần trước Quốc Hội Hoa Kỳ.
Báo Huffington Post năm 2013 có bài viết đặc biệt về GS Tenzin. Trước tiên, báo HP kể lại cơ duyên là, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma tới thăm Honolulu trong lễ khánh thành hội bất vụ lợi Pillars of Peace Hawaii hồi tháng 4/2012, phái viên báo này thắc mắc về người luôn đứng kế bên Đức Đạt Lai Lạt Ma ở mọi nơi khi ngài xuất hiện. Sau đó, nhà báo liên lạc, và hơn một năm sau, đã phỏng vấn viết về cuộc đời của ông.
Sinh năm 1961 gần ngọn núi linh thiêng Mt. Kailash, Tenzin Dorjee là một em bé sơ sinh khi ba mẹ gói cậu lại ra đi, vượt núi đồi băng tuyết Tây Tạng đang bị Trung Quốc chiếm đóng để vào Ấn Độ. Là một trong hơn 100,000 người Tây Tạng tìm tỵ nạn ở Ấn Độ, cậu Tenzin lớn lên ở Bylakuppe, một trong những khu tập trung người Tây Tạng lớn nhất ở Nam Ấn Độ.
Sau trung học, Tenzin rời miền Nam để tới khu vực dưới chân rặng núi Hy Mã Lạp Sơn, vào thị trấn Dharamsala, nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma cư trú. Nơi đây, Tenzin vào tu học ở Institute of Buddhist Dialectics (sát nghĩa, có thể dịch là Học Viện Nhân Minh Luận Phật Giáo; tuy nhiên, có thể gọi đơn giản là Đại Học Lý Luận Phật Giáo), và trở thành một nhà nghiên cứu và là dịch giả tại Library of Tibetan Works and Archives / Thư Viện và Văn Khố Tác Phẩm Tạng Ngữ.
Tại thị trấn của người Tây Tạng tỵ nạn nơi chân rặng núi Hy Mã Lạp Sơn này, Giáo sư Tenzin Dorjee (bây giờ, có thể gọi là GS Tenzin rồi, vì anh là dịch giả của nhiều công trình Phật học công phu) tưởng như sẽ sống cuộc đời lặng lẽ chuyên nghiên cứu Phật học – nhưng rồi Tenzin được mời sang Hoa Kỳ để giảng dạy tại một Phật Học Viện Tây Tạng ở Montana năm 1991.
GS Tenzin kể lại, “Tôi chưa bao giờ nghĩ tới sang Tây phương. Nhưng các bạn tôi cho rằng tôi quá bảo thủ, do vậy họ thúc đẩy tôi đi.”
Trong khi ở Montana, GS Tenzin được mời đi theo thông dịch cho Lati Rinpoche, một đại sư Tây Tạng và cũng là một phụ tá của Đức Đạt Lai Lạt Ma về kỹ năng tranh luận giáo nghĩa. Thế rồi, năm 1993, trong chuyến đi thứ nhì, GS Tenzin quyết định học tiếp tại Hoa Kỳ. Năm 1995, anh nhận được một visa cho phép anh theo học bậc cử nhân và cao học, và rồi Tiến Sĩ ngành truyền thông từ Đai học University of California.
Cũng như nhiều người Tây Tạng trong cùng thế hệ được lớn lên ở Ấn Độ, GS Tenzin nói tiếng Tây Tạng, tiếng Ấn Độ và tiếng Anh. Khi GS Tenzin bắt đầu tìm học cách dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Anh, không có chương trình chính thức nào dạy, và vì hai ngôn ngữ quá dị biệt, những năm đầu nghiên cứu của anh rất mực gian nan. Không giống tiếng Anh, tiếng Tây Tạng theo trật tự “Chủ từ - túc từ - động từ.” Khi động từ nằm cuối câu, những người thông ngôn đồng thời phải suy nghĩ trong hai ngôn ngữ cùng lúc, ráng nhớ câu đã nói trước đó trong khi chờ động từ nói lên để hoàn tất câu nói.
GS Tenzin nói, “Hai ngôn ngữ không phù hợp nhau, và thiếu động từ thì bạn không thể thông dịch được.”
Năm 2012, sau khi thành công dân Mỹ, hoàn tất học vị Tiến Sĩ, Tenzin nhận việc dạy lý thuyết truyền thông tại CSU Fullerton. Tại đây, anh nhận được email từ văn phòng Đức Đạt Lai Lạt Ma yêu cầu anh đi tới Hawaii để giữ nhiệm vụ thông ngôn trong sự kiện dài ba ngày có tên là Pillars of Peace (Trụ Cột Hòa Bình).
Trong hơn ba thập niên ở Ấn Độ, GS Tenzin đã thông ngôn cho khoảng sáu vị thầy PG Tây Tạng nổi tiếng, kể cả trong nhiều trường hợp, là thông ngôn cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Dù vậy, yêu cầu đó vẫn là ngạc nhiên. Vì tình cờ lúc đó, người thông ngôn thường xuyên của Đức Đạt Lai Lạt Ma không thể tới Hawaii.
GS Tenzin kể lại, người thị giả của Đức Đạt Lai Lạt Ma là Chhime Rigzing đã trình lên Đức Đạt Lai Lạt Ma một tấm hình của tôi, và Ngài nói, ‘À, tôi biết anh này.’ Thế là tôi có thể tới Hawaii. “Rất mực xúc động.” Tenzin nói, khi kể về cuộc hội kiến với vị lãnh tụ Phật Giáo Tây Tạng.
Khi nói tiếng Anh, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường vững vàng khi tự mình thảo luận các đề tài khó khăn, ngay cả với nhiều người dùng Anh ngữ là tiếng mẹ đẻ. Sự hiện diện của người tham vấn thông ngôn bên cạnh, chắc chỉ mang lại cảm giác an ninh hơn là vì cần thiết. Nhưng với GS Tenzin, điều này có nghĩa là đứng kế bên và chăm chú trong mọi thời gian, sẵn sàng thực hiện công việc được xem là thách thức nhưng đầy vinh dự.
Đức Đạt Lai Lạt Ma là tác giả hơn 100 đầu sách về nhiều đề tài, như siêu hình học, vũ trụ học, khoa học về não bộ, tâm linh và khoa học. “Suy nghĩ của Đức Đạt Lai Lạt Ma rất mực sâu thẳm và thâm thúy”, Tenzin nói. Nhưng vì tiếng Anh không phải là bản ngữ của Ngài, nên thỉnh thoảng phải suy nghĩ tìm nhớ các chữ thường dùng.
Trong những ngày GS Tenzin thông dịch cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, anh gần như thường trực bên cạnh Ngài, nơi trung tâm của một vòng an ninh thường dành cho nguyên thủ quốc gia. Những ngày đó, lịch làm việc của Đức Đạt Lai Lạt Ma không đòi hỏi lắm, nhưng GS Tenzin nhớ lại thời làm việc với Ngài nhiều năm trước đó ở Ấn Độ. “Bởi vì Ngài sẽ làm việc suốt cho tới 6 hay 7 giờ tối, rất mực là mệt nhọc.”
Trong một trường hợp, GS Tenzin kể, có lần anh gần như đã làm hỏng mọi thứ.
“Đức Đạt Lai Lạt Ma là tất cả với chúng tôi, dân tộc Tây Tạng,” GS Tenzin nhớ lại. “Ngài là người, nhưng cũng là một bậc linh thánh và do vậy chúng tôi đặt Ngài trên một tòa sen. Tôi không thể hình dung sẽ đứng trước mặt Ngài, như tôi đã được yêu cầu. Đó là lần đầu tiên và tôi khủng hoảng.” GS Tenzin có một nhầm lẫn, và rồi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rất cứng rắn, “Không.”
GS Tenzin kể, “Tôi sợ kinh hoàng, điếng cả người. Khi bình tĩnh trở lại, tôi nhận ra rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đang nói bằng tiếng Anh và tôi nghĩ, ‘Thôi nhé, đây là cơ hội đầu tiên và cuối cùng cho mình.”
Nhưng rồi GS Tenzin cũng được gọi trở lại, nhiều lần. Nhờ làm việc kế bên với Đức Đạt Lai Lạt Ma trong nhiều chuyến đi, GS Tenzin nói rằng anh có thể hiểu thêm về cách suy nghĩ của Đức Đạt Lai Lạt Ma và dần dần tự tin hơn.
GS Tenzin nói, “Rất là thách thức vì bạn phải theo dõi dòng suy nghĩ của Ngài. Ngài có thể không đang nói tiếng Tây Tạng, nhưng nếu Ngài suy nghĩ gian nan để tìm chữ, bạn phải đoán ra chữ đó.” Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
“Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về các đề tài như về thiền định mật tông, về vật lý lượng tử, về đạo đức và nhiễm thể di truyền học, sẽ có rất ít người thông dịch có thể theo kịp tốc độ của Ngài.
Ngài có thể trích dẫn một trăm cuốn sách khác nhau từ trí nhớ, và bạn phải theo cho kịp với trí tuệ chói sáng của Ngài. Rất là gay go.”
Riêng về chuyến đi Hawaii để thông dịch trong sự kiện The Pillars of Peace thì tương đối đơn giản, Tenzin nói, bởi vì người tham dự chủ yếu là học sinh và công chúng bình thường, các đề tài – kiến tạo hòa bình và tăng trưởng từ bi – tương đối là dễ.
Victor Chan, giám đốc sáng lập trung tâm The Dalai Lama Center for Peace and Education (Trung Tâm Đức Đạt Lai Lạt Ma vì Hòa Bình và Giáo Dục) tại Vancouver, B.C., Canada, có tham dự sự kiện Pillars of Peace. Ông Chan đồng ý rằng công việc của GS Tenzin quả là nhẹ nhàng, so với những gì một số người thông dịch gặp phải.
Chan giải thích rằng thường thì Đức Đạt Lai Lạt Ma nói một mạch 15 hay 20 phút rồi ngừng lại để cho người thông dịch nhớ lại toàn bộ đoạn độc thoại đó. “Người thông dịch được kỳ vọng là phải nhớ toàn bộ mà không cần giấy bút ghi chép.”
“Không dễ gì thông dịch cho Đức Đạt Lai Lạt Ma… trừ phi bạn biết ngữ vựng của khoa học não bộ và tâm lý học. Nếu bạn đang thông dịch giáo lý Phật giáo, bạn phải rất mực lưu loát,” Chan nói, thêm rằng nhiều từ ngữ khoa học tiếng Anh mà Đức Đạt Lai Lạt Ma sử dụng không có chữ tương đương trong tiếng Tây Tạng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma tự gọi Ngài là “một nhà sư Phật Giáo đơn giản” và trong một thái độ khiêm tốn, nói về việc Ngài nói kiểu “tiếng Anh hư vỡ.” Nhưng Chan, người đồng tác giả hai cuốn sách với Đức Đạt Lai Lạt Ma, nói rằng Ngài là người nói tiếng Anh rất là thông thạo. Ngay cả khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói trật văn phạm căn bản, Chan nói rằng lời Ngài nói rất là kiểu cách riêng và vẫn đầy sức mạnh.
“Ngài có thể dễ dàng nói tiếng Anh liên tục không nghỉ mà không cần tờ giấy ghi chép nào có sẵn, một mạch cả một giờ rưỡi và làm cho khán thính giả chú tâm.
Đức Đạt Lai Ma cao niên rồi, nhưng vẫn để nhiều thì giờ trong năm đi thuyết pháp toàn cầu trong nhiều tuần lễ, thường trở lại giảng dạy khắp Ấn Độ và tại nơi Ngài cư trú ở Dharamsala. Tùy nơi Ngài ở, Đức Đạt Lai Lạt Ma làm việc với những người thông dịch bằng tiếng Tây Tạng, Ấn Độ, Anh ngữ, Nhật ngữ, Pháp ngữ và các ngôn ngữ khác.
GS Tenzin kể rằng người dân Tây Tạng nhìn Đức Đạt Lai Lạt Ma khác với người không phải Tây Tạng. Trong một ý nghĩa, trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thực tiễn để nối kết với người khác bất kể xuất thân dị biệt, và thực sự không bận tâm về người khác có quyền lực hay vị trí gì, Ngài nhiều hơn là một “nhà sư Phật Giáo đơn giản.”
GS Tenzin nói, “Nếu chúng ta thực sự nhìn vào lịch sử đời Ngài, và vào định chế thiết lập Đức Đạt Lai Lạt Ma và về cách khởi xuất định chế này… Ngài là vị thứ 14, là một hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, là hiện thân của Từ Bi. Có nghĩa là, ngài không thể chỉ là đơn giản – rất là khác biệt chứ. Trong một cách, Ngài y hệt như chúng ta. Trong một cách khác, Ngài là một bậc đại giác ngộ. Nhưng hai tầng đó như dường dung hòa rất dung thông trong trường hợp của Ngài. Cùng lúc, đó là một hiện thực rất nghịch lý đối với tôi. Do vậy, đó là một thách thức về những gì liên hệ tới Ngài.”
Tuy đã rời xa các Phật học viện, GS Tenzin Dorjee vẫn đang sống y hệt như các thiền sư nhập thế. Vị Chủ tịch Ủy Ban Hoa Kỳ đi khắp các cõi gian nan để quan sát tình hình tự do tôn giáo, bênh vực người thiểu số Hồi giáo gặp bất công trong đất nước Miến Điện nơi đa số là Phật tử, và bênh vực người thiểu số Thiên Chúa Giáo bị truy bức tại quốc gia Iraq nơi đa số là Hồi giáo.
Thế đó, là người con lành của Phật Giáo Tây Tạng… GS Tenzin Dorjee đang đi giữa cõi này y hệt một dòng sông từ bi lưu chảy để làm nguội những cơn giận trần gian.
Đứng bên cạnh một ngọn núi cao nhất, dĩ nhiên cũng phải là một ngọn núi. Với cơ duyên được chọn đi sát bên cạnh Đức Đạt Lai Lạt Ma, một ngọn núi trí tuệ tuyên thuyết Bồ Đề Tâm, Tenzin Dorjee đang góp lời mời gọi tất cả chúng sinh cùng vào nhà Như Lai.
Là Chủ Tịch Ủy Ban Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Thế Giới, Giáo sư Tenzin đã cảnh báo là Phật Giáo Việt Nam và Tây Tạng đang gặp hiểm họa. Khi bài này được viết vào cuối năm dương lịch, ông đang ở Daramshala thủ phủ của người Tây Tạng lưu vong bên sườn Hy Mã Lạp Sơn, vùng phía Bắc Ấn Độ,
Với tình thân, anh bạn Tenzin thường lui tới với Việt Báo và đã từ nhiều năm, anh luôn có mặt sớm tại tòa soạn trong ngày Mùng Một Tết để cùng nhau đón mừng nguyên đán.
Trần Khải