Hôm nay,  

Tầm Quan Trọng Chính Trị Của Các Cộng Đồng Hải Ngoại (Diaspora)

02/09/202200:00:00(Xem: 2679)
Nguoi Viet Mung Tet

Người Việt mừng Tết tại Trung tâm thương mại Eden, Falls Church, Virginia (25/1/2020) (Hình của Hồ Văn Hiền)

Năm 2015, có chừng 78000 người Việt sinh sống ở vùng thủ đô Washington, DC (Pew Research Center)

 

(Tiếp theo kỳ trước)

 

Giới thiệu: Tầm quan trọng của diaspora hay cộng đồng người gốc Việt sống ngoài Việt Nam càng ngày càng gia tăng. Để có một cái nhìn tổng quát, có tính cách học thuật và khách quan hơn về tình hình chung của diaspora Việt cũng như các diaspora khác trên thế giới, tôi xin giới thiệu và dịch bài viết năm 2005 của Steven Vertovec, một giáo sư đại học Đức chuyên về Xã hội học và Dân tộc học.

 

Sau đây là phần 2, tiếp theo phần 1 (kỳ trước) bàn về các ý niệm và định nghĩa của diaspora. Các điểm liên quan tới Việt Nam sẽ được người dịch ghi chú, bàn luận thêm trong phần chú thích ở cuối bài.

  

Chính trị Diaspora

 

Các lợi ích và hoạt động chính trị trong diaspora chắc chắn không có gì mới. Các nghiên cứu lịch sử về các cộng đồng di cư cho thấy mức độ tham gia chính trị từ xa đáng kể đã hiển nhiên ít nhất là từ 100 năm trước.

 

Hiện tại, chúng ta có thể quan sát một cách rộng rãi nhiều cách khác nhau – tương tự như các hình thức lịch sử này – qua đó các nhóm xã hội phân tán trên trường quốc tế huy động và thực hiện một loạt các hoạt động chính trị bầu cử và phi bầu cử.

 

Các hiệp hội khác nhau đặt cơ sở trên diaspora có thể vận động các quốc gia sở tại định hình các chính sách có lợi cho quê nhà hoặc thách thức chính phủ tại quê nhà; ảnh hưởng đến quê hương qua sự ủng hộ hoặc phản đối của các chính phủ; hỗ trợ tài chính và các hỗ trợ khác cho các đảng phái chính trị, các phong trào xã hội và các tổ chức xã hội dân sự; hoặc tài trợ cho hoạt động khủng bố hoặc kéo dài xung đột bạo lực ở quê nhà.

 

Mạng lưới toàn cầu của các hiệp hội của diaspora đôi khi tham gia vào các cuộc biểu tình lớn và nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến quê nhà. Sau khi thủ lĩnh người Kurd Abdullah Ocalan bị bắt năm 1999, các cuộc biểu tình quy mô lớn của người Kurd đã diễn ra ở hàng chục địa phương trên thế giới, khiến các vấn đề về người Kurd được toàn thế giới chú ý.

 

Bản thân các quốc gia gốc có thể tiếp cận để thu hút sự chú tâm chính trị của diaspora. Đưa ra các quy định về tư cách công dân và / hoặc quốc tịch là một cách để các quốc gia tiếp cận người di cư. Hiện đang có một xu hướng gia tăng trên toàn cầu về sự phổ biến của hai quyền công dân / song tịch, cả về những người sở hữu nó và các quốc gia cho phép nó.

 

Người ta ước tính rằng hơn nửa triệu trẻ em sinh ra ở Hoa Kỳ mỗi năm, tự động là công dân Hoa Kỳ, có thêm ít nhất một quốc tịch. Tất nhiên, nhiều nhà hoạch định chính sách ở các nước tiếp nhận người di cư không hài lòng về điều này, họ tin rằng mọi người chỉ nên trung thành với một lá cờ và trung thành với một quốc gia.

 

Ở các quốc gia gởi người di cư đến, đôi khi khó có thể thúc đẩy được hai quốc tịch thông qua các chính phủ vì các chính trị gia trong nước có xu hướng nhìn thấy những bất lợi. Họ thường cảm thấy rằng việc bỏ phiếu "vắng mặt" có thể giao cho những người sống ngoài nước quá nhiều ảnh hưởng.

 

Thật vậy, phiếu bầu của người nước ngoài là mối quan tâm của nhiều quốc gia có cộng đồng người hải ngoại khá lớn. Điều này gần đây đã được cảm nhận trong cuộc bầu cử ở Iraq vào tháng 1 năm 2005, khi hơn một triệu người Iraq sống ở nước ngoài được cho là sẽ có tác động lớn đến kết quả. Trên thực tế, chỉ một phần tư trong số những người đủ điều kiện thực sự ghi danh bỏ phiếu.

 

Các trường hợp khác cho thấy công dân nước ngoài có thể trở về nước ào ạt để tham gia các cuộc bầu cử, vốn đã xảy ra ở Thổ Nhĩ Kỳ và Israel, đôi khi các đảng phái chính trị trả tiền cho các chuyến bay. Người di cư cũng có thể bỏ phiếu với số lượng lớn tại các đại sứ quán ở nước ngoài, như trong các cuộc bầu cử ở Indonesia và Algeria gần đây.

 

Trọng lượng của các quyền lợi của diaspora và sự hỗ trợ của diaspora đôi khi dẫn đến các hình thức đại diện đặc biệt trong các chính phủ hoặc các bộ chuyên trách dành cho diaspora. Một minh họa điển hình về hiệu quả của chính trị diaspora xảy ra vào năm 1990 khi những người Croatia ở nước ngoài quyên góp 4 triệu đô la cho chiến dịch bầu cử của Fanjo Tudjman và sau đó được tưởng thưởng với quyền đại diện trong quốc hội: 12 trong số 120 ghế được phân bổ cho người Croatia hải ngoại – nhiều hơn số ghế được phân bổ cho các dân tộc thiểu số của Croatia.

 

Nhiều quốc gia (đang phát triển hay không) tìm kiếm tiền do các diaspora gửi về nước. Do đó, nhiều chính phủ hiện cung cấp cho công dân của họ ở nước ngoài các tài khoản (trương mục) ngoại tệ đặc biệt, các ưu đãi hoặc trái phiếu cho người đầu tư nước ngoài, các ưu đãi về hải quan hoặc nhập khẩu, các quyền sở hữu đặc biệt, hoặc đặc quyền tiếp cận các khu kinh tế đặc biệt.

 

Để giữ cho cộng đồng người nước ngoài quan tâm đến chính trị cũng như duy trì dòng tài chính, các chính trị gia ở các quốc gia di cư thường kêu gọi sự đoàn kết giữa những công dân nước ngoài của họ. Điều này đã được minh chứng vào năm 1990 khi Tổng thống Ireland Mary Robinson tuyên bố mình là lãnh đạo của đại gia đình Ireland ở nước ngoài (1).

 

Trong chiến dịch vận động tranh cử của Vincente Fox với những người Mexico ở California vào năm 2000, tương tự như vậy, ông đã dựa trên theo ranh giới rộng lớn hơn của một quốc gia tưởng tượng bằng cách tuyên bố ông sẽ là tổng thống đầu tiên "cai trị 118 triệu người Mexico", bao gồm 100 triệu ở Mexico và 18 triệu sống bên ngoài nước này.

 

Và trong bài phát biểu nhậm chức vào năm 2002, tổng thống Kenya Mwai Kibaki đã kêu gọi tất cả người dân Kenya ở nước ngoài "hãy cùng chúng tôi xây dựng đất nước."

 

Xây dựng và Phá vỡ Quốc gia

 

Lịch sử cung cấp nhiều ví dụ về các dự án kiến tạo quốc gia được thực hiện trong thời kỳ lưu vong; Garibaldi, Lenin, Gandhi, và Hồ Chí Minh sống một thời gian dài ở nước ngoài (2). Các nhà lãnh đạo của một số "diaspora vô quốc gia " – người Kurd, người Kashmir và người Sri Lankan Tamil (3) – đang đấu tranh để hướng tới các dự án như vậy ngày nay.

 

Các diaspora ngày càng đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển kiến tạo quốc gia ở các nước nghèo và những nước đã trải qua quá trình chuyển đổi lớn, chẳng hạn như các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Điều này là do một số yếu tố, bao gồm khả năng tiếp cận các nguồn lực kinh tế, thông tin liên lạc và đi lại dễ dàng hơn, và số lượng lớn các chuyên gia và doanh nhân sống ở nước ngoài có kỹ năng và kinh nghiệm để đóng góp.

 

Phương tiện quan trọng nhất của việc xây dựng quốc gia của diaspora là các vụ chuyển tiền cá nhân, tiếp theo là các hiệp hội đồng hương của các thành phố và các sáng kiến từ thiện có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và nâng cao năng lực. Chính phủ của các quốc gia đưa và nhận người di cư, các cơ quan quốc tế và giới học thuật hiện đang dành sự quan tâm đáng kể đến mối quan hệ giữa diaspora và phát triển.

 

Một lĩnh vực liên hệ khác đang được chú ý liên quan đến tiềm năng của các diaspora trong việc giảm chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển. Các chương trình sáng tạo trong nước và quốc tế về "khai thác diaspora" đã được thực hiện để các nước sở tại có thể tiếp cận chuyên môn, kiến thức và kinh nghiệm của người ở nước ngoài (cũng như các mạng lưới bên ngoài để phát triển thương mại, truyền thông và công nghệ).

Một trong những hoạt động được biết đến nhiều nhất là “Chuyển giao kiến thức thông qua người dân ở nước ngoài” (TOKTEN) thuộc về Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, bắt đầu ở Thổ Nhĩ Kỳ vào những năm 1970 và hiện đã được thành lập ở khoảng 50 quốc gia. Chương trình hỗ trợ hàng nghìn công dân nhập cư có chuyên môn nghiệp vụ trở về quốc gia xuất xứ của họ và làm việc trong vài tuần hoặc vài tháng, mặc dù một số chọn ở lại lâu hơn.

 

Một phương thức xây dựng quốc gia khác, hoặc ít nhất là bảo trì quốc gia, là thông qua cứu trợ thiên tai. Có nhiều ví dụ về viện trợ đáng kể từ cộng đồng diaspora sau các thảm họa như cơn bão Mitch ở Trung Mỹ năm 1998 và động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 1999 và ở bang Gujarat của Ấn Độ năm 2001. Các nhóm diaspora có liên quan đến các khu vực trên khắp Ấn Độ Dương đã phản ứng một cách hào phóng với trận sóng thần tháng 12 năm 2004, như đã đề cập ở trên.

 

Tuy nhiên, ngay cả khi những phản ứng nhân đạo như vậy nảy sinh, hoạt động chính trị của diaspora có tác dụng phá hoại vẫn có thể xuất hiện. Theo báo cáo, viện trợ của diaspora cho Gujarat (Ấn độ) sau trận động đất năm 2001 đã giúp duy trì các cuộc tàn sát tập thể có tổ chức (pogrom) chống người Hồi giáo. Đã có những tuyên bố rằng các tổ chức Tamil khác nhau đã quyên tiền cho các nạn nhân sóng thần ở Sri Lanka, và tiền này trong thực tế được sử dụng mua vũ khí và vật liệu cho nhóm “Hổ Giải phóng” (Liberation Tigers of Tamil Eelam – LTTE).

 

Cộng đồng diaspora cũng có thể tích cực tham gia vào việc tàn phá đất nước khi có bạo lực và chiến tranh ở quê hương. Các nhóm diaspora đã đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy và hỗ trợ xung đột ở nhiều nơi như Ethiopia, Kosovo, Nagorno-Karabakh, Kashmir, Israel và Palestine.

 

Hỗ trợ tài chính có thể đến từ nhiều bộ phận khác nhau của diaspora đến các nhóm nổi dậy hoặc nỗ lực của một chính phủ nào đó để tiêu diệt chúng. Khi đây là một cuộc xung đột giữa các sắc tộc, hai hoặc nhiều cộng đồng diaspora có thể đối chọi với nhau, như thể hiện rõ ràng trong sự tan rã của Bosnia.

 

Cộng đồng diaspora có thể tham gia vào các nỗ lực giải quyết xung đột và duy trì tái thiết sau xung đột, chẳng hạn như ở Eritrea và Sri Lanka. Nhưng với số tiền họ gửi về quê nhà, họ có thể làm tăng nguy cơ xảy ra xung đột mới trong những năm ngay sau biến động, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới.

 

Kết luận

 

Mặc dù họ cư trú bên ngoài biên giới quốc gia gốc của họ hoặc của cha mẹ họ, nhưng nhiều người vẫn coi họ là thành viên hợp pháp của bản sắc tập thể và trật tự chính trị xã hội của nước đó.

 

Nhưng các bản sắc và hoạt động khác nhau của diaspora có xu hướng có những tác động khác nhau đối với quê hương và quốc gia sở tại. Đối với các quốc gia tiếp nhận, sự trung thành chính trị kép do các diaspora đề xuất có thể làm dấy lên nỗi sợ hãi về "kẻ thù bên trong" và những kẻ khủng bố. Những nghi ngờ như vậy có thể dẫn đến phân biệt chủng tộc và các hình thức phân biệt đối xử khác.

 

Một câu hỏi khác có tầm quan trọng về chính sách và xã hội được đặt ra ở các quốc gia tiếp nhận: liệu sự ràng buộc của các diapora với quê nhà của họ – thụ động hay chủ động – có cản trở sự hội nhập của người nhập cư không? Một số người cho rằng những người nhập cư sẽ không bao giờ thực sự hòa nhập nếu họ vẫn luôn luôn nhìn về quê hương. Những người khác nói rằng chỉ bằng cách duy trì mối quan hệ sắc tộc và xuyên quốc gia bền chặt, người di cư mới có thể xây dựng sự tự tin mà họ cần có để kết hợp thành công [với xã hội tiếp nhận].

 

Đối với các cộng đồng hải ngoại của nước mình, người dân trong nước chắc chắn muốn được số tiền gửi về và có thể đánh giá cao việc vận động hành lang, nhưng họ có thể phản đối sự tham gia chính trị quá nhiều. Đó là lý do tại sao một số đưa ra các hình thức hạn chế về song tịch mà không cho mở rộng quá nhiều qua quyền bỏ phiếu và đại diện quốc hội.

 

Đối với tất cả các khía cạnh của tác động chính trị khác nhau, sự đa dạng trong cộng đồng phải được nhấn mạnh. Trong mỗi trường hợp vận động hành lang, quyên góp từ thiện hoặc hỗ trợ xung đột nào, mỗi cộng đồng diaspora hiếm khi hoạt động như một thực thể đơn thuần. Hầu hết cộng đồng người hải ngoại, dù dựa trên tiêu chí dân tộc hay quốc gia, đều bao gồm các phe phái đối lập và những tiếng nói bất đồng. Tuy nhiên, những khác biệt thường bị trấn áp bởi các tác nhân có tổ chức, có mạng lưới và tài chính tốt hơn, những tác nhân thường là những kẻ thúc đẩy các chương trình nghị sự của chủ nghĩa dân tộc hoặc sắc tộc.

 

Diaspora hiện thân một cách mạnh mẽ các xu hướng rộng lớn hơn trong bản tính đang thay đổi của các quốc gia-dân tộc. Ngày nay, bản sắc về quốc gia / dân tộc, cộng đồng chính trị và nơi cư trú không còn tự động ăn khớp với nhau một cách gọn gàng. Thay vào đó, người di cư có nhiều gắn bó khác nhau mà công nghệ hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi. Bản sắc chính trị và tập quán của họ được định hình giữa và trong bối cảnh của cả quê hương của người di cư và xã hội tiếp nhận họ.

 

Đây là xu hướng không thể đảo ngược mà các nhà hoạch định chính sách cần lưu ý khi xem xét lại bất kỳ điều chỉnh nào đối với chính sách nhập cư và hội nhập. Chúng ta không thể mong đợi những người di cư ngày nay chỉ đơn giản là cắt bỏ các gốc rễ của họ. (4)

 

(Nguyên tác: The Political Importance of Diasporas).

 

Steven Vertovec

(Hồ Văn Hiền dịch)

(20/8/2022)

 

Tác giả Steven Vertovec là Giám đốc tại Viện Max Planck về Nghiên cứu Đa dạng Tôn giáo và Dân tộc, Göttingen, và là Giáo sư Danh dự về Xã hội học và Dân tộc học, Đại học Göttingen, Đức.

 

Chú thích (HVH):

 

(1) Chính sách của Việt Nam đối với “5,3 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài” gồm việc gia tăng nhận thức về mối quan hệ với diaspora, gia tăng đóng góp từ diaspora cho sự phát triển của Viện Nam, “giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” trong diaspora, và ”quan tâm chỉ đạo đổi mới nội dung hoạt động và kiện toàn cơ quan đại diện” của Việt Nam đối với diaspora.

 

(2) Nhà cách mạng Phan Bội Châu (1867-1940) hoạt động ở Nhật từ năm 1905 đến năm 1908, và sau đó vỡ mộng với người Nhật, bắt buộc rời Nhật và di chuyển qua Trung Hoa cho đến lúc ông bị người Pháp bắt năm 1925, tuyên án và đem về an trí ở Huế cho đến lúc ông qua đời. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm (1901-1963) cũng ở ngoại quốc (Nhật, Châu Âu, Mỹ) từ năm 1950 cho đến lúc về nước năm 1954 để làm thủ tướng, dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại.

 

(3) Về từ ngữ “vô quốc gia / stateless”. “Stateless nation” là một dân tộc không có riêng một quốc gia (state) của mình trong đó mình là đa số; từ này ngụ ý là đáng lẽ ra họ xứng đáng được một quốc gia cho riêng mình. Dân tộc Do Thái trước đây “stateless” hay “vô quốc gia” cho đến năm 1948 thì quốc gia Israel được thành lập. Dân Kurd là một trường hợp “dân tộc vô quốc gia”. Với dân số ước tính khoảng 30 triệu người, người Kurd là một trong những nhóm người lớn nhất không có quốc gia riêng. Quê hương truyền thống của họ, Kurdistan, đã bị chia cắt trong nhiều thế kỷ hỗn loạn chính trị ở Trung Đông. Vùng đất từng là Kurdistan hiện bị chia cắt dọc theo biên giới của Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq và Syria. Mặc dù không có cuộc điều tra dân số chính xác gần đây về cộng đồng diaspora người Kurd, nhưng các số liệu được chấp nhận rộng rãi ước tính khoảng 1,2 triệu người Kurd sống bên ngoài Kurdistan, với khoảng một nửa số người Kurd sống ở Đức. Người Kashmir, nói tiếng Kashmiri là cư dân vùng thung lũng Kashmir, có nhiều tranh chấp giữa Ấn Độ, Pakistan và Trung quốc. 6,8 triệu người ở vùng do Ấn Độ cai trị. Một số người Kashmir muốn xứ họ trở thành một quốc gia độc lập và trung lập. Cộng đồng người Tamil từ Sri Lanka gồm chừng 900 ngàn người di cư sống rải rác và phân tán trên toàn cầu, tập trung ở Vương quốc Anh (120 ngàn), Canada (157 ngàn), Ấn Độ, Châu Âu, Úc, Hoa Kỳ (25 ngàn), Malaysia, Singapore, Seychelles và Mauritius.

 

Sau ngày 30/4/1975 người Việt trốn khỏi nước được gọi là “apatride” hay dịch qua tiếng Việt là “vô tổ quốc” vì quốc gia Việt Nam Cộng Hoà không còn tồn tại nữa.

 

Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Nam, hành nghề luật tại Sài Gòn (Trên trang mạng BBC; 12 tháng 3 2013):

 

“Tổ quốc, có thể hiểu là đất nước do tổ tiên để lại, chỉ nơi sinh thành tổ tiên dân tộc ta; sinh thành tổ tiên, ông bà, cha mẹ của mỗi con người.

Tổ quốc Việt nam là cội nguồn chung của mọi người Việt nam từ hàng ngàn năm nay. Vì thế, dĩ nhiên Tổ quốc không thể mang một ý thức hệ tư tưởng nào cả.

 

Tên Tổ quốc chỉ giản dị cho biết đó là Tổ quốc của dân tộc nào, ai có nguồn cội từ đâu. Trong quá trình Toàn cầu hóa, Nhà nước có thể mất đi, nhưng Tổ quốc sẽ vẫn luôn tồn tại.”

 

Thiết tưởng người tỵ nạn chỉ mất quốc tịch gắn liền với quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, từng được hàng trăm quốc gia khác công nhận, nhưng tổ quốc của tiền nhân để lại vẫn còn đó, cho nên người dịch xin chọn từ “vô quốc gia” có tính cách pháp lý hơn là “vô tổ quốc”.

 

(4) Về vai trò của quê nhà và lịch sử, quá khứ trong văn chương hải ngoại:

 

Phạm thị Hoài, một nhà văn và nhà báo sanh tại Hải Dương, miền Bắc Viện Nam, và học ở Đức và hiện đang ở Đức nhận xét: “Ở hải ngoại hiện tại với 4 triệu người sử dụng, nó không thực sự truyền bá văn hóa Việt Nam, có chăng chỉ mong làm phần nước sốt rưới lên một món đồng hóa toàn cầu nào đó cho phảng phất mùi vị Việt. Chỉ số ảnh hưởng của nó không đáng kể, song chỉ số hòa bình có lẽ cao.”

 

Một học giả, nhà báo và giáo sư đại học nổi tiếng người gốc miền Nam Việt Nam, hiện ở Úc, Nguyễn Hưng Quốc, thì viết như sau trong cuốn sách “Sống Và Viết Ở Hải Ngoại” của mình:

 

“Phần tôi, mặc dù sống ở ngoại quốc đã gần 40 năm, vẫn chủ yếu viết bằng tiếng Việt. Tiếng Việt là quê hương của tôi. Các thứ tiếng khác chỉ là những cõi lưu đày, ở đó, tôi không có quá khứ, cũng không có họ hàng. Tiếng Việt còn là thân thể của tôi.”

 

Nhưng Nguyễn Hưng Quốc cũng viết rằng đối với một số người hải ngoại ông biết:

 

“Theo họ, Việt Nam chỉ là nơi để đi du lịch chứ không phải là nơi có thể sống được lâu dài. Người ta đưa ra hai lý do chính: Một là nhớ con cháu tại Úc; hai là, Việt Nam hoàn toàn không an toàn.” (An toàn về địa chính trị, chính trị và môi trường sống).

 

Đối với thế hệ 1.5 (lớn lên ở hải ngoại) và 2 (sinh ra tại hải ngoại), có thể tiếng Việt không đóng vai trò là “quê hương, là thân thể “ như Nguyễn Hưng Quốc nói ở trên. Tuy nhiên trong những nước Tây phương như Mỹ, Anh, Pháp, Úc càng ngày càng trở nên đa văn hoá, đa sắc tộc; với chính trị bản sắc (identity politics) càng lúc càng nặng nề, trong đó những người cùng một chủng tộc hay sắc tộc, tôn giáo, giới tính phát triển các agenda chính trị riêng dựa trên những bản sắc này, mặc dù ngôn ngữ chuyển tải không phải là tiếng Việt mà tiếng Anh.

 

Ocean Vương (Vương Quốc Vinh), Việt kiều (cháu nội của một người lính Mỹ, đến Mỹ lúc mới hai tuổi), văn sĩ và thi sĩ tiếng Anh từng đoạt nhiều giải thưởng quốc tế, giáo sư tại đại học nổi tiếng, người đồng tính, có sách được dịch và ca tụng ở Việt Nam, là một người Việt hải ngoại mang nhiều bản sắc khác nhau cùng một lúc. Tuy đến từ Mỹ lúc còn nhỏ, Ocean Vương có những nhận xét sâu sắc về văn hóa lâu đời của Việt Nam so với văn hóa Mỹ lúc trả lời câu hỏi về một bài thơ “Old Glory” của anh chứa đầy những từ ngữ đầy bạo lực trong ngôn ngữ hàng ngày ở Mỹ:

 

“… Văn hóa Trung Hoa và Việt Nam lâu đời hơn Mỹ rất nhiều. Và tôi nghĩ, theo nghĩa này, nước Mỹ vẫn chưa trưởng thành. Tôi cho rằng cách nó hiển thị và xử lý ngôn ngữ vẫn còn khá sơ khai đối với một quốc gia và một nền văn hóa có nhiều sức mạnh và khả năng như vậy về công nghệ. Nó thực sự thật cổ lổ trong cách nó hình dung khả năng của ngôn ngữ, và theo nghĩa này, văn hóa Trung Quốc và Việt Nam đang đi trước, cả về dòng thời gian, nhưng cũng về mặt văn hóa, về óc khôn ngoan của họ. Vào những ngày đẹp trời, tôi tin rằng cuối cùng nước Mỹ cũng có thể đạt được sự khôn ngoan đó. Chúng ta thường coi những quốc gia nước ngoài này là “lạc hậu”, nhưng chúng ta chỉ đo lường điều đó ở G.D.P (tổng sản lượng quốc gia thôi). Và công nghệ. Nhưng nếu nói đến sự khôn ngoan tinh thần về cách xử lý một thứ như ngôn ngữ, thì Việt Nam đang đi trước, và tôi hy vọng một ngày nào đó Mỹ sẽ bắt kịp.”

 

Những người thế hệ thứ 2 có thể có nguồn gốc chủng tộc hay quốc gia từ nhiều nơi, nhiều nước. Dù biết ít hay nhiều tiếng Việt, thế hệ diaspora trẻ càng lúc càng muốn tìm hiểu về nguồn gốc chủng tộc và văn hoá và di sản của mình và dùng những vốn liếng này để tạo một chỗ đứng riêng của mình trong môi trường xã hội Tây phương mới không chỉ có một dòng chính mà gồm nhiều dòng chảy song song với nhau.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Trung Cộng muốn đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam để đánh lạc hướng và cầm chân quân đội Bắc Việt, ngăn chận cuộc tổng tấn công Miền Nam đang tiến hành,” Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bửu Viên nói với chúng tôi ngay sau cuộc rút quân khỏi Pleiku (15/2/1975). Ít lâu sau, lại được nghe Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cho biết sau một cuộc Họp Nội Các, rằng: “TC có liên lạc và đề nghị một kế hoạch để tiếp cứu VNCH, nhưng TT Thiệu đã từ chối.” Vào thời điểm ấy thì chúng tôi cho rằng câu chuyện TC muốn can thiệp để ngăn chận cuộc tấn công của BV là hoang tưởng, viển vông nên không để ý, và sau này cũng quên không hỏi thẳng TT Thiệu.
Vào thế kỷ 18, Đảng Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republican Party) được gọi tắt là Cộng Hòa (Republican) hoạt động ở Hoa Kỳ do Thomas Jefferson và James Madison thành lập, nhằm chống lại chủ trương và chính sách của Đảng Liên Bang (Federalist Party) lãnh đạo bởi Luật Sư Alexander Hamilton hoạt động mạnh về kinh tế, xã hội, ngoại giao...
Các di tích bằng đá gọi là megalith rải rác khắp nơi trên thế giới, tiếng Việt gọi là “cự thạch” (“cự” có nghĩa là lớn như trong cự phách, cự đại, cự phú, dịch prefix mega; thạch là đá)...
LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", và sắp xuất bản cuốn BỨC TỬ VNCH - KISSINGER VÀ 8 THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM. Bước vào tháng Tư, mời đọc bài bài viết đã đăng trên báo xuân Việt Báo Ất Dậu (2005), vừa được tác giả gửi lại bản có hiệu đính.
Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng và chưa có bảng thống kê về ngôn ngữ, kể từ khi có mặt loài người sống trên hành tinh trái đất này. Có hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn ngôn ngữ khác biệt nhau, và chưa có ai qủa quyết con số chính xác về ngôn ngữ từng được sử dụng trong lịch sử phát triển của xã hội con người...
Cho dù Hoa Kỳ trong thế yếu không còn thúc đẩy Trung Quốc dân chủ hóa nhưng bù lại cả hai chính quyền Bush (con) và Obama đều bang giao với Trung Quốc như một đối tác trách nhiệm (responsible party). Thực tế trái ngược vì tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh tăng theo đà phát triển kinh tế nên Trung Quốc không còn muốn nép mình trong trật tự thế giới tự do (liberal world order) do Mỹ lãnh đạo...
Tháng Ba là tháng vinh danh những đóng góp của người phụ nữ cho xã hội, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nước khác. Nhà văn người Anh Charlotte Brontë (1816-1855) đã viết trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của bà “Jane Eyre,” được xuất bản vào năm 1847, rằng, “Tôi không phải là chim; và không có cái lưới nào bẫy được tôi: Tôi là một con người tự do với ý chí độc lập.”Charlotte Brontë đã khai hỏa trên mặt trận văn chương cho cuộc chiến kéo dài hàng nhiều thế kỷ để đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội mà tới hôm nay vẫn chưa thực sự chấm dứt. Những thanh thiếu nữ tại Afghanistan đã và đang bị cấm thừa hưởng nền giáo dục học đường mà đáng lý ra các em phải có được! Nhưng, không phải chỉ ở thời đại của tác giả “Jane Eyre” người phụ nữ mới gióng lên tiếng nói tự do và độc lập mà trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay người phụ nữ đã bao lần lên tiếng, xuống đường để tranh đấu cho tự do và độc lập của họ cũng như của xã hội và đất nước họ.
Vào thập niên 1970 kinh tế và dân số Ấn Độ và Trung Quốc tương đương với nhau nhưng rồi 30 năm sau đó tăng trưởng bên Tàu vượt xa Ấn. Nếu so sánh Trung Quốc với nhiều nước đang mở mang khác như Ai Cập, Brazil, Indonesia…kết quả đều tương tự. Câu hỏi đặt ra nơi đây tại sao tham nhũng ở Trung Quốc không cản trở tăng trưởng, mà trái lại nền kinh tế bốc hỏa nhanh chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại?
Vào đầu thế kỷ 20, xã hội Nga cũng tương tự như xã hội Pháp trước cuộc cách mạng 1789 vậy. Một mặt triều đình thối nát, công quỹ kiệt quệ. Mặt khác giáo hội Chính Thống Giáo cũng liên kết với vương quyền và giới quý tộc bóc lột người dân. Cuộc cách mạng lật đổ Nga Hoàng năm 1917 không phải hoàn toàn, hoặc chủ yếu, do người Cộng Sản Bolshevik. Cũng như cuộc cách mạng Pháp và những cuộc cách mạng khác, thành quả có được là do sự đóng góp của nhiều cá nhân và đảng phái khác nhau. Tuy nhiên tổ chức nào nghiêm túc, chặt chẽ và kỷ luật sẽ nắm được thế thượng phong...
Một thế hệ trí thức Việt Nam mới xuất hiện trong thập niên đầu thế kỷ XX, quyết tâm đấu tranh vì độc lập dân tộc và hiện đại hóa xã hội Việt Nam...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.