Hôm nay,  

Khái Niệm Mới Về Dịch Thuật

06/03/202209:38:00(Xem: 2011)

Capture

(Lược và trích trong chương một của The Theory and Practices of Translation của Eugene A. Nina và Chaeles R. Taber. Bản dịch ở Hoa Kỳ xuất bản 1982 bởi E.J. Brill, Leiden, trong chương trình Helps For Translation. )

Giới thiệu:

Những ai thích dịch hoặc thích đọc bài dịch từ kho tàng chữ nghĩa của thế giới, xin mời đọc bài này.

 

LỜI DẪN:

Bài viết tuy có nội dung dịch thuật về kinh thánh, nhưng khái niệm tổng quát về dịch áp dụng chung cho nghệ thuật dịch, được phát triển mạnh mẽ trong nửa phần sau của thế kỷ 20 và phổ biến sâu rộng sang thế kỷ 21 vào những lãnh vực dịch khác nhau, nhất là văn chương và văn hóa.

Xin nhắc rằng, hệ thống dịch lớn nhất và dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau nhất trên thế giới là hệ thống dịch kinh thánh của giáo hội La Mã. Vì vậy, kinh nghiệm lý thuyết, kinh nghiệm thực hành, kinh nghiệm nghệ thuật dịch của họ dày, rộng, và sâu. Một trong vài người dẫn đầu hệ thống dịch này là Eugene A. Nina.

Dịch thuật ở Việt Nam thừa hưởng từ nền dịch thuật của Pháp từ nửa đầu thế kỷ 20, nay đã xưa cũ và có nhiều phần trong lý thuyết cùng phương pháp dịch đã lỗi thời. Dịch sát theo ý tác giả và dịch sát theo ngôn ngữ của bản gốc là hai việc khác nhau, nếu chưa nhận định được khái niệm này, nên suy xét lại. Dịch bám sát theo bản gốc là quan niệm truyền thống, nay, đã không còn là ưu điểm hàng đầu. Nhất là dịch thơ. Giỏi ngôn ngữ chưa hẳn là người dịch đáng tin cậy.

Những việc ấy tuy quan trọng nhưng chưa quan trọng bằng ý muốn dịch và ý “chê dịch” của một số người biết dịch. Ý muốn dịch theo quan niệm của mình là đúng, vì mình sẽ chịu trách nhiệm với phẩm chất và nghệ thuật dịch, tuy nhiên, không thể kết luận phương pháp dịch của mình là độc tôn, đứng nhất thiên hạ. Ý “chê dịch” là ý sai lầm. Vì bản chất của dịch là sai, nên dịch giỏi là làm giảm bớt lỗi và dịch hay là thay thế bớt những lầm lẫn, nhưng không có bản dịch nào hoàn hảo, 100% theo ý tác giả.

Người Việt cần đọc nhiều văn bản dịch trong mọi lãnh vực để nhận ra những điều hay, lẽ phải, những gì cần phải biết từ sức khỏe, khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội , tâm lý, văn hóa, văn chương, văn học, quân sự, vật lý, hoá học … tóm lại là tất cả những gì giúp cho trí tuệ và tâm tư của chúng ta đào sâu mở rộng và bừng lên ánh sáng của thế giới.

Tôi đề nghị các bạn có khả năng dịch cứ dịch, thời gian sẽ loại bỏ những gì không đúng, không phù hợp, nhưng không cần phải chỉ trích nhau về bản dịch. Nếu thấy dịch không “đúng” theo ý mình, thì mình dịch một bản khác, “đúng” hơn, để người đọc giám định và học hỏi. Có câu, “chỉ trích là rẻ tiền, hành động là đầu tư.” Người đọc có trình độ đều có thể nhìn thấy: hành động vạch lá tìm sâu, lòng tỵ hiềm, và bóng tối âm u trong lời chỉ trích thiếu hiểu biết. Thay vì mất thời giờ vạch cỏ tìm gai, sao không trồng cây hoa, cây ăn trái?

(Ghi: Chữ thẳng là bản dịch từ bản gốc. Chữ nghiêng là lời của người dịch. Và tôi xin trình bày theo lối bản viết rời.)

 

1.

Chưa bao giờ trong lịch sử thế giới lại có nhiều người tham gia vào việc dịch thuật về cả hai mặt: thế tục và tôn giáo. Người ta ước tính, ít nhất khoảng 100. 000 người dành phần lớn hoặc toàn bộ thời giờ cho công việc này. […] Thật không may, lý thuyết cơ bản về dịch đã không bắt kịp sức phát triển của các kỹ năng. Đối với việc phiên dịch của tôn giáo, mặc dù nhiều tài năng thánh hiển và nỗ lực tận tụy, sự hiểu biết đã bị lỗi thời so với khả năng dịch thuật trong các lãnh vực thế tục. […] Sự nhận định có vẻ ta thán của Nina, vì ông nhìn ra những thay đổi của nghệ thuật dịch bên ngoài tôn giáo. Không bị bó buộc bởi những giáo điều, các học giả khác, cùng thời, đã đưa ra những ý niệm và phương pháp dịch phù hợp thời đại, tự do hơn và mỹ thuật hơn.      

2. TRỌNG TÂM KHÁC BIỆT GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ TÂN THỜi.

Theo trọng tâm cũ, việc dịch là hình thức của thông điệp, và người dịch thích thú vào phần tái tạo các đặc điểm về văn phong, ví dụ nhịp điệu, vần, cách chơi chữ, những ngữ pháp khác thường … Trong khi, trọng tâm mới di chuyển từ hình thức của thông điệp to sự phản hồi của người cảm nhận. Nghĩa là, điều để người ta quyết định là phản hồi của người đọc đối với thông điệp. (Một ví dụ thú vị, tuy là một trường hợp đặc biệt, nhưng nếu trải rộng ra, đó là những khó khăn bình thường gặp phải khi dịch: Trong kinh thánh có đoạn kể lại chuyện Chúa Giê-Su chữa bệnh người bị quỉ ám, khi đuổi con quỉ ra khỏi người bệnh, trông thấy đàn heo đi qua, Chúa đuổi quỉ nhập vào đàn heo chạy xuống vực sâu. Nếu dịch đúng bản gốc, vào trong xứ đạo Hồi thờ phượng con heo, thì kinh thánh sẽ bị tẩy chay. Vì mục đích truyền đạo quan trọng hơn, người dịch đổi đàn heo thành đàn cừu, đàn dê. Quỉ nhập vào cừu, vào dê thì không xâm phạm đến tín ngưỡng Hồi giáo. Thời đại hôm nay cho phép dịch được thay đổi theo mục đích và văn hóa để mang lại ích lợi, không nhất thiết phải bám theo ý tác giả.)  

Sự phản hồi này sẽ được so sánh với sự phản hồi của nguyên bản, tức là sự cảm nhận qua hình thức thông điệp.

Nếu câu hỏi cũ là: Đây có phải là một bản dịch chính xác không? Bây giờ, phải trả lời thêm một câu hỏi: …bản dịch chính xác cho ai? Tính chính xác được xác định bởi mức độ mà người đọc “trung bình” trong văn bản dịch mà dịch giả muốn họ có thể hiểu một cách chính xác. Chúng tôi không chỉ quan tâm đến khả năng hiểu đúng của người đọc, mà còn có khả năng lôi cuốn thú vị. Nói một cách khác, không chỉ đơn thuần dịch nội dung để người đọc trung bình hiểu được thông điệp, hơn nữa, chúng tôi muốn bảo đảm, họ khó có thể hiểu lầm.

Đặt câu hỏi vế tính đúng chính xác theo kiểu này, đương nhiên ngụ ý sẽ có một số cách dịch khác nhau, có thể gọi là “đúng” (hoặc tiếp cận sát sự đúng.) Trong thực tế, đối với các học giả đã hiểu rõ bản gốc, ngay cả bản dịch theo nghĩa đen, tốn nhiều công sức, cũng là bản “đúng” (theo nghĩa tiếp cận sát,) họ không lầm lẫn. Mặt khác, trong hầu hết các cộng đồng ngôn ngữ lớn, đặc biệt khi họ áp dụng ngôn ngữ quốc tế mà hàng triệu người sử dụng, sẽ có một số trình độ văn hóa xã hội khác nhau về khả năng nói và hiểu. Nghĩa là, cần phải đòi hỏi một số cấp độ dịch khác nhau về từ vựng, cấu trúc ngữ pháp, để mọi người có cơ hội căn bản đồng đều cảm hiểu thông điệp trong bản dịch. […]

Ông Nina phát biểu khá rõ ràng về sự “đúng”, nhiều cách dịch khác nhau, đều “đúng”. Nghe có vẻ rất nghịch lý, nhưng nếu xét về mặt phức tạp của các ngôn ngữ khi đối chiếu sẽ có sự chọn lựa giữa: đồng nghĩa, tương đương, tương xứng, tương ứng, để dùng vào văn bản dịch cho rõ cho hay theo ý dịch giả, (có nghĩa, trình độ hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi dịch giả sẽ xác định giá trị bản dịch), thì “ tiếp cận đúng”, nhiều cách đúng, có ý nghĩa hơn là “sai.” Quan điểm này ủng hộ nghệ thuật dịch trăm hoa đua nở. Trong đoạn này, Nina còn nhắc đến, “một bản dịch cũng có thể nặng về mặt văn phong  đến mức gây ra khó hiểu.” Câu nói này nhắc nhở một số người dịch quá chú trọng theo sát văn phong của tác giả, nghĩa là bám sát cấu trúc ngữ pháp và từ vựng để đồ lại (copy) nhan sắc của văn bản gốc, nếu tạo ra một văn bản khó hiểu hoặc không thể hiểu, thì vô ích. Nhất là dịch thơ, không nhất thiết phải bám trụ thể thơ và bắt chước câu thơ.

3. THÁI ĐỘ MỚI TÔN TRỌNG NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI ĐỌC.

Một số vấn đề trở ngại trong việc dịch (kinh thánh hoặc áp dụng vào dịch văn bản thế tục) có thể bắt nguồn từ thực tế: người ta thường có quan điểm khá lầm lẫn về người đọc cũng như các ngôn ngữ gốc. Vì vậy, để dịch các văn bản tiếp cận mục đích tương đương sự phản hồi, người dịch cần thay đổi quan niệm về ngôn ngữ mà họ đang dịch. Điều này không chỉ bao gồm thay đổi một số thái độ có khuynh hướng đặt ngôn ngữ gốc lên bệ thần học (xem trọng, bất di bất dịch không thể thay đổi) cúi đầu tôn thờ một cách mù quáng, mà đòi hỏi phải triệt để suy nghĩ lại thái độ đối với ngôn ngữ của người đọc, ngay cả khi nó là tiếng mẹ đẻ của mình. (Nói dễ hiểu hơn, không thể quá tôn trọng ngôn ngữ gốc của tác giả một cách mù quáng, mà phải quan tâm đến ngôn ngữ của độc giả.)              



4. ĐẶC TÍNH RIÊNG CỦA MỖI NGÔN NGỮ.

Ngay từ đầu, điều cần thiết là phải nhận ra, mỗi ngôn ngữ đều có tính đặc sắc và huyền ảo của nó. Nghĩa là, mỗi ngôn ngữ sở hữu những đặc tính riêng biệt tạo ra cho nó một số sắc thái riêng tư. Ví dụ: khả năng thành lập chữ, những mẫu độc đáo của trật tự hành văn, kỹ thuật liên kết các mệnh đề thành câu, các dấu hiệu của diễn ngôn, và các kiểu diễn tả đặc thù của địa phương. Những điểm này hiện rõ trong thơ. (Chúng ta có thể chia sẻ quan điểm trên dễ dàng, cứ nhìn vào thế giới ngôn ngữ, sẽ thấy ngay ngôn ngữ chia ra một số vùng chữ viết, như vùng chữ tượng hình của Trung quốc, vùng chữ abc phát xuất từ Ai cập và La mã, vùng chữ “siêu thực” tiếng Phạn … Mỗi vùng chia  nhánh ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, và mỗi ngôn ngữ gắn liền với địa lý, phong thổ, cá tính dân tộc, lịch sử, của mỗi địa phương, phát sinh những đặc tính khác biệt.)

Để thông đạt có hiệu quả, người ta phải tôn trọng sự tinh túy của mỗi ngôn ngữ.

Thay vì than phiền về việc thiếu một số đặc tính trong một ngôn ngữ, người dịch nên tôn trọng những đặc điểm trong ngôn ngữ của người đọc và khai thác tiềm năng của ngôn ngữ đó ở mức độ cao nhất có thể áp dụng. […] Đơn giản, người ta phải chấp nhận trong thực tế, có nhiều ngôn ngữ không có (hoặc không muốn) sử dụng giọng thụ động. Đơn thuần, họ chỉ tường trình các hành động như là các hoạt động. Thay vì cưỡng ép những cấu trúc chính thức của ngôn ngữ này lên ngôn ngữ khác, người dịch giỏi đã chuẩn bị kỹ để dịch thay đổi bất kỳ các cấu trúc chính thức nào cần thiết để tái tạo những thông điệp, thông tin, ở dạng cấu trúc đặc biệt của ngôn ngữ độc giả.

Bất cứ điều gì có thể nói bằng ngôn ngữ này, đều có thể nói bằng ngôn ngữ khác, trừ khi hình thức đó là một yếu tố tinh chất của thông điệp.

Đối với người bình thường, tiềm năng và sự tương đương trong thực tế của ngôn ngữ có lẽ là điểm tranh luận nhiều nhất về dịch thuật. Sẽ rất khó hiểu, nếu một người chưa bao giờ thấy tuyết lại có thể hiểu một đoạn kinh thánh nói về “trắng như tuyết”. […] Ví dụ trên cho thấy, nếu độc giả không có kinh nghiệm về một sự việc gì trong ngôn ngữ bản gốc, khi đọc bản dịch, dù dịch hay, dịch đúng, họ vẫn không thể cảm nhận hoặc chia sẻ. “Tuyết” là vật cụ thể, thực tế, có thể thấy qua báo chí, hình ảnh, dù chưa thực sự đối diện với tuyết. Nếu là một sự kiện, hình tượng trừu tượng, hoặc ý tưởng mà độc giả chưa biết bao giờ, đương nhiên họ không thể lãnh hội. Điều này áp dụng vào câu văn, có rất nhiều ngôn ngữ xây dựng câu văn khác với ngữ pháp quen thuộc của độc giả, thấy rõ nhất là trong dịch thơ, vì vậy, có sự cân nhắc và lựa chọn trăn trở khi thay đổi thể thơ và cách cấu trúc trong câu thơ.  

Tuy nhiên, phải nói rằng, nếu hình thức (cách diễn tả) thông điệp là yếu tố thiết yếu cho ý nghĩa của nó, thì rõ ràng có một giới hạn trong việc truyền đạt ý nghĩa từ bản gốc sang bản dịch. Thông thường không thể tái tạo loại ý nghĩa này. Ví dụ, trong chương thứ ba của John. Chúa Giê-Su nói về “gió/wind” và “thánh linh/Spirit”. Trong tiếng Hy lạp “pneuma” dùng cho cả hai ý nghĩa. Điều này dẫn đến cách chơi chữ quan trọng, nhưng không thể minh bạch dịch sang Anh ngữ. Trong trường hợp này cần ghi chú bên lề để độc giả biết một từ vựng của bản gốc mang hai ý nghĩa khác biệt. (Dịch một văn bản khó mà không có ghi chú hoặc giải thích gì, có nghĩa là người dịch hoặc quá tự tin hoặc xem thường phẩm chất dịch.)  

Trong tinh thần đó, người dịch gặp khó khăn, gần như không thể, tái tạo nhịp điệu, vần điệu của thơ và nhất là những nét đặc sắc hoặc đặc thù của bài thơ và những ám chỉ có chủ đích. Ở thời điểm này, ngôn ngữ mất khả năng tương ứng, người dịch phải chuẩn bị hy sinh một số hình thức (cách diễn đạt) hay đẹp nào đó vì ích lợi chung của nội dung. Nghĩa là, để bảo toàn nội dung của thông điệp, hình thức diễn đạt phải thay đổi. (Lập luận chính xác) Nếu tất cả ngôn ngữ khác nhau về hình thức, và đây là bản chất khác biệt của ngôn ngữ, thì hoàn toàn tự nhiên các hình thức diễn đạt phải thay đổi để bảo toàn nội dung. […] Lập luận này trở thành định đề trong dịch thuật, biểu lộ rõ rệt nhất trong thơ, lời nhạc, và văn bản triết học. Đa số những phê phán về dịch sai rơi vào những trường hợp này. Sự chọn lựa để hy sinh một số hình thức ngôn ngữ, kể cả ý và tứ để bảo toàn nội dung hoặc giữ gìn tinh túy bản gốc của mỗi dịch giả, sẽ khác nhau và dĩ nhiên khác với chọn lựa của người phê phán. Trong lãnh vực dịch thuật, nhất là dịch văn bản văn chương, sự phê phán thường biểu lộ sự thiếu hiểu biết, sự tự tin cường điệu, hơn là đúng hoặc sai. Đơn thuần, cá nhân đó tự cho mình quyền tối cao phê chuẩn ngôn ngữ.

Xin ghi nhận rằng, dịch giả thường không có nhiều danh vọng. Những dịch giả giỏi đã là tác giả hoặc nhanh chóng trở thành tác giả. Cho dù là ai, khi dịch, người đó trở thành kẻ phục dịch, người trung gian chuyển tiếp nội dung và hình thức bản gốc sang một khối văn bản dịch. Công việc này thường bị chê hơn là khen. Dịch giả là một phó thường dân của tác giả, đồng thời là người phục vụ nơi bàn ăn chữ nghĩa của độc giả, hầu hết mọi hầu hạ trong các bữa ăn đều không có tiền típ.

Vì bản chất tinh túy của ngôn ngữ, và ngôn ngữ thế giới chia ra nhiều dòng dõi khác biệt. Khi dịch các ngôn ngữ trong cùng một dòng dõi thì sự thay đổi hình thức diễn đạt ít hơn, dễ hơn đối với dịch ngôn ngữ khác dòng dõi. Ví dụ dịch tiếng Spanish sang tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức thì thuộc vào trường hợp dịch thuật trong cùng đại gia đình. Nếu dịch tiếng Anh sang tiếng Iran, Ả rập … sự thay đổi hình thức diễn tả sẽ thường xuyên và đôi khi không thể nào phiên dịch. Còn nếu như dịch tiếng Batu Phi châu qua tiếng Anh, sẽ còn phải quyết liệt hơn để chọn lựa những gì có thể chuyển dịch. Tiếng Anh là tiếng thông dụng, tự bản thân đã chất chứa những kinh nghiệm thay đổi mang tính toàn cầu, Còn như dịch các ngôn ngữ khác sang tiếng Việt, khó khăn lên đến bội phần. Tuy nhiên, khi gặp thực khách khó tính, khó chịu, nói năng khó hiểu, không lẽ người hầu bàn bỏ việc ra về?

5. THÁI ĐỘ MỚI LIÊN QUAN ĐẾN NGÔN NGỮ GỐC.

Thái độ dịch mới quan tâm đến ngôn ngữ người đọc chắc chắn ngụ ý một cách nhìn mới về ngôn ngữ gốc. […] 

Người dịch phải cố gắng tái tạo ý nghĩa của mỗi đoạn văn theo ý hiểu biết của người viết. Nguyên tắc cố gắng tái tạo ý nghĩa một đoạn văn mà người viết hiểu một cách tự nhiên không cần phải nói, nhưng ở đây vẫn có nhiều điều người ta đáng thắc mắc. Ví dụ, một số người nhấn mạnh việc dịch tiếng Hy  Lạp trong Tân Ước, phải trở về với ngôn ngữ Aramaic để hiểu rõ Chúa Giê-Su đã nói gì trong ngôn ngữ này. Nói một cách khác, điều người viết hiểu dễ dàng, sau một thời gian dài, không hẳn là những gì người đọc có thể lãnh hội rõ ràng. Cứ như Kinh Thi đã được Khổng Tử san định, được các cao nhân giảng giải, được Nguyễn Hiến Lê bàn soạn, nhưng đến đời cháu của chúng ta, họ dễ gì cảm nhận những thâm thúy mà cha mẹ chúng ta từng vỗ tay tán thưởng? Dịch không dễ dàng, đơn giản, chuyển chữ này sang chữ kia, giải ý này qua ý nọ, mà chủ yếu vấn đề đa văn hóa và văn hóa khác biệt qua thời đại. Trước thời Chúa Giê-Su cụm từ “cổng trời” chỉ định một nơi biệt giam trên đỉnh núi không có đường xuống. Đến đời Tân Ước, “cổng trời”, trở thành cửa thiên đàng, dịch giả biết dịch làm sao?

 

Hết chương Một. Mời đọc chương Hai: The Nature of Translating của  Eugene Nina trong lần sắp tới. 

Ngu Yên

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng Ba là tháng vinh danh những đóng góp của người phụ nữ cho xã hội, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nước khác. Nhà văn người Anh Charlotte Brontë (1816-1855) đã viết trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của bà “Jane Eyre,” được xuất bản vào năm 1847, rằng, “Tôi không phải là chim; và không có cái lưới nào bẫy được tôi: Tôi là một con người tự do với ý chí độc lập.”Charlotte Brontë đã khai hỏa trên mặt trận văn chương cho cuộc chiến kéo dài hàng nhiều thế kỷ để đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội mà tới hôm nay vẫn chưa thực sự chấm dứt. Những thanh thiếu nữ tại Afghanistan đã và đang bị cấm thừa hưởng nền giáo dục học đường mà đáng lý ra các em phải có được! Nhưng, không phải chỉ ở thời đại của tác giả “Jane Eyre” người phụ nữ mới gióng lên tiếng nói tự do và độc lập mà trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay người phụ nữ đã bao lần lên tiếng, xuống đường để tranh đấu cho tự do và độc lập của họ cũng như của xã hội và đất nước họ.
Năm 1960, khi Gladys Babson Hannaford đến Đại Học Bang Florida, các bài thuyết giảng của bà không nằm trong chương trình giảng dạy chính thức của trường. Và Hannaford, người được mệnh danh là “Quý Cô Kim Cương” (Lady Diamond), cũng không phải là giảng viên thông thường. Là một “chuyên gia” về kim cương với hàng trăm buổi thuyết trình “mang tính giáo dục” về đá quý hàng năm, trên thực tế, Hannaford được một công ty quảng cáo tuyển dụng với một sứ mệnh đơn giản nhưng đầy tham vọng: làm cho phụ nữ Hoa Kỳ ham muốn sở hữu kim cương.
Vào thập niên 1970 kinh tế và dân số Ấn Độ và Trung Quốc tương đương với nhau nhưng rồi 30 năm sau đó tăng trưởng bên Tàu vượt xa Ấn. Nếu so sánh Trung Quốc với nhiều nước đang mở mang khác như Ai Cập, Brazil, Indonesia…kết quả đều tương tự. Câu hỏi đặt ra nơi đây tại sao tham nhũng ở Trung Quốc không cản trở tăng trưởng, mà trái lại nền kinh tế bốc hỏa nhanh chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại?
Vào đầu thế kỷ 20, xã hội Nga cũng tương tự như xã hội Pháp trước cuộc cách mạng 1789 vậy. Một mặt triều đình thối nát, công quỹ kiệt quệ. Mặt khác giáo hội Chính Thống Giáo cũng liên kết với vương quyền và giới quý tộc bóc lột người dân. Cuộc cách mạng lật đổ Nga Hoàng năm 1917 không phải hoàn toàn, hoặc chủ yếu, do người Cộng Sản Bolshevik. Cũng như cuộc cách mạng Pháp và những cuộc cách mạng khác, thành quả có được là do sự đóng góp của nhiều cá nhân và đảng phái khác nhau. Tuy nhiên tổ chức nào nghiêm túc, chặt chẽ và kỷ luật sẽ nắm được thế thượng phong...
Một thế hệ trí thức Việt Nam mới xuất hiện trong thập niên đầu thế kỷ XX, quyết tâm đấu tranh vì độc lập dân tộc và hiện đại hóa xã hội Việt Nam...
Vua nước Chiêm Thành là Chế Mân, người anh hùng chiến thắng cả được quân Nguyên Mông, thế mà lại phải đầu hàng trước nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của Huyền Trân Công chúa. Ông liền dâng cả miền đất của Châu Ô, Châu Rí cho Việt Nam để làm quà sính lễ xin cưới Huyền Trân về làm vợ. Nàng hy sinh, giúp mở được con đường Nam Tiến. Vua Trần đổi tên hai châu thành Thuận Châu và Hóa Châu, gọi tắt là Thuận Hóa. Chữ 'Hóa' dần dần đọc trại đi thành "Huế."
Việt Nam và Trung Quốc sẽ là những nước dân chủ. Vấn đề không phải là sẽ dân chủ hay không, mà vấn đề là vào thời điểm nào. Chính các người Cộng Sản tại hai quốc gia này cũng phải công nhận tính bất khả vãn hồi của tiến trình dân chủ hóa đó...
Rất ít từ nào được liên kết một cách chặt chẽ với Henry Kissinger quá cố hơn là "hòa hoãn". Thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng trong ngành ngoại giao vào đầu những năm 1900, khi vị đại sứ Pháp tại Đức đã cố gắng - và thất bại - để cải thiện mối quan hệ đang xấu đi của đất nước của ông với Berlin, và vào năm 1912, khi các nhà ngoại giao Anh cố gắng làm điều tương tự...
Năm 2022 Bắc Kinh phong tỏa nghiêm nhặc nhiều thành phố lớn (gồm cả Thượng Hải) khi đại dịch Vũ Hán bùng phát trở lại ở Trung Quốc , sang đến đầu năm 2023 lại đột ngột hủy bỏ mọi lệnh cấm. Thế giới cho rằng nền kinh tế Trung Quốc sẽ phát triển nhảy vọt sau một thời gian dài bị kềm hãm nhưng trong thực tế tăng trưởng trì trệ khác với mong đợi. Sau 30 năm tương đối dễ thở dân Tàu chợt nhớ mình vẫn sống ngột ngạt dưới chế độ toàn trị...
LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", và sắp xuất bản cuốn BỨC TỬ VNCH - KISSINGER VÀ 8 THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM. Mời đọc bài viết mới nhất được tác giả gửi cho Việt Báo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.