Hôm nay,  

Trước trận Hoàng Sa (19-1-1974)

21/01/202200:00:00(Xem: 3166)
 
Hoang Sa Truong Xa hinh trang nhat
Trường Sa – Hoàng Sa. Nguồn: Sites.google.co 
 
LỜI NÓI ĐẦU:  Biến cố lịch sử hiện đại vào đầu năm dương lịch đáng ghi nhớ nhất với người Việt có lẽ là trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-01-1974, một trận chiến chống ngoại xâm duy nhứt trong chiến tranh 1954-1975 trên đất nước chúng ta.  Nhân dịp tháng 01-2022, chúng tôi xin mời quý vị độc giả theo dõi những diễn biến chính trị “Trước trận Hoàng Sa”.
 
*
 
Hoàng Sa (Paracel Archipelago) là một quần đảo gồm khoảng trên 100 đảo nhỏ trên Thái Bình Dương (Biển Đông), giữa kinh tuyến 111 và 113 độ Đông, và vĩ tuyến 15 đến 17 độ Bắc, ngang với vùng bờ biển từ tỉnh Quảng Trị đến tỉnh Quảng Ngãi.  Quần đảo nầy gồm hai nhóm:  Nhóm phía tây là Nguyệt Thiềm (hay Trăng Khuyết) (Crescent group) và nhóm phía đông bắc là An Vĩnh (Amphitrite group). 

Hình 1 trai
 
HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM
 
Trong lịch sử, nhiều tài liệu chứng tỏ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông thuộc chủ quyền nước Việt. Có thể trước hoặc trong thơi Hiên Vương Nguyễn Phúc Tần (cầm quyền  ở miền nam sông Gianh từ 1659-1687), chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa, nhiệm vụ ra vào hàng năm theo mùa gió, nhằm kiểm soát và khai thác tài nguyên ở quần đảo nầy
 
Từ thời nhà Nguyễn, hàng năm, triều đình gởi thuyền ra Hoàng Sa thăm dò rồi trở về.  Năm 1835 vua Minh Mạng sai thuyền chở gạch đá, đến xây đền trên đảo Bàn Than (thuộc Hoàng Sa), dựng bia để ghi dấu, gieo hạt trồng cây.  Khi đào móng đắp nền, xây đền, các lính thợ đã đào được 2,000 cân đồng và gang sắt. (Quốc sử quán nhà Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, quyển 8, tỉnh Quảng Ngãi, Phạm Trọng Điềm dịch, Huế: Nxb. Thuận Hóa, tập 2, 1997, tr. 322-323.)
Từ đó, theo mùa gió hàng năm triều đình nhà Nguyễn gởi thủy binh ra Hoàng Sa vào cuối tháng giêng (âm lịch) để thăm dò, bảo vệ, rồi trở về sáu tháng sau.  Dưới thời Pháp thuộc, Pháp bắt đầu đặt trạm quan thuế và tuần tra quần đảo từ năm 1920.  Sau đó Pháp lập trạm khí tượng năm 1933.  Trạm nầy thuộc quyền quản lý của sở Khí tượng ở Đà Nẵng.  Từ năm 1938, Pháp xây bia, dựng hải đăng và lập đội biên phòng bảo vệ Hoàng Sa.  Ngày 30-3-1938, vua Bảo Đại (trị vì 1926-1945) ban đạo dụ tách Hoàng Sa khỏi liên tỉnh Nam Ngãi và nhập vào tỉnh Thừa Thiên.
 Hình 2 trai
 
Trước khi thế chiến thứ hai bùng nổ, ngày 31-3-1939, có thể do nhu cầu quân sự, chuẩn bị tiến xuống Đông Nam Á, Nhật đưa quân chiếm quần đảo Trường Sa (Spratlys), và sau đó vài ngày chiếm tiếp quần đảo Hoàng Sa (Paracel Archipelago). (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975 (tập A: 1939-1946), Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996, tr. 16.)  Khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, Pháp tái kiểm soát các quần đảo trên Biển Đông.  Ngày 14-10-1950, Pháp chuyển giao Hoàng Sa cho Quốc Gia Việt Nam.  Thủ hiến Trung Việt là Phan Văn Giáo ra tận Hoàng Sa làm lễ tiếp nhận.  (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975 (tập B: 1947-1954), Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 196.)
 
Nhân lúc Nhật Bản đầu hàng năm 1945, Trung Hoa Dân Quốc gởi quân chiếm một số đảo trong quần đảo Hoàng Sa năm 1946, nhưng chính phủ Pháp phản đối. Năm 1949, lên cầm quyền ở Trung Hoa, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tiếp tục đòi hỏi:  “Chính quyền Quốc Dân Đảng đã nghiên cứu và xác định tên tiếng Trung Hoa và tiếng Anh cho toàn bộ các đảo, vỉa đá Trung Hoa trên biển phía nam Trung Hoa vào tháng 12/1934 và tập hợp chúng lại thành bốn quần đảo lần đầu tiên.  Một bản đồ ấn hành vào tháng 4-1935 cho thấy chi tiết các đảo của Trung Hoa trên biển phía nam Trung Hoa, đánh dấu mũi cực nam của biển phía nam Trung Hoa là Zengmu’ansha ở vĩ độ 4 độ  Bắc chí tuyến.  Một bản đồ khác, ấn hành tháng 2/1948 cho thấy, sự phân chia hành chính của Trung Hoa Dân Quốc.  Bản đồ còn cho thấy đường nối dài 11 điểm bao quanh bốn quần đảo với mũi cực nam ở Zengmu’ansha. Đây là bản đồ đầu tiên đánh dấu biên giới hình chữ U của Trung Hoa trên biển phía nam Trung Hoa.  Các bản đồ ấn hành sau khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thành lập [1949] đã giữ lại đường nối dài 11 điểm, và cho tới năm 1953, thì hai điểm đánh dấu Vịnh Bắc Việt bị xóa bỏ. Sau đó, tất cả bản đồ Trung Hoa đều theo đường nối dài chín điểm, hình chữ U.” (China Daily ngày 22-7-2011 trang 9.)
 
Trong khi đó, sau thất bại năm 1945, tại Hội nghị hòa bình San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 6-9-1951, Nhật Bản tuyên bố từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.  Đại diện Liên Xô là Andrei Gromyko cho rằng quần đảo Hoàng Sa (Paracel Archipelago) và các đảo khác về phía nam, được xem là lãnh thổ của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH), và yêu cầu hội nghị bổ sung vào hiệp định là các hải đảo đó thuộc chủ quyền của CHNDTH. Tuy nhiên, Gromyko không đưa ra được bằng chứng cụ thể nào chứng minh chủ quyền của CHNDTH đối với các đảo trên, nên hội nghị đã bác bỏ yêu cầu của Liên Xô. 
 
Thủ tướng Quốc Gia Việt Nam lúc đó là Trần Văn Hữu xác nhận tại diễn đàn hội nghị nầy rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.  Không một nước nào lên tiếng phản đối.  (Vào Google, chữ khóa “Hội nghị hòa bình San Francisco năm 1951”.)
 
Hình-3-trai
 
Qua thời Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành “Luật và sắc lệnh” số 174 NV ngày 13-7-1961 đặt tên quần đảo Hoàng Sa là xã Định Hải, trực thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, do một phái viên hành chánh đứng đầu.(Xin xem văn bản đính kèm.) Quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam có thể dựa vào vĩ độ của quần đảo Hoàng Sa tương đương với vĩ độ của tỉnh Quảng Nam và cũng có thể trạm khí tượng trên Hoàng Sa trực thuộc Sở Khí tượng Đà Nẵng.
 
Trong khi đó từ Cù Lao Ré (Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) ra tới đảo Tri Tôn (cực tây của Hoàng Sa) là 123 hải lý.  Ngày 21-10-1969, thủ tướng Trần Thiện Khiêm ký nghị định số 709-BNV/HĐCP sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, cũng thuộc quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.
CỘNG SẢN VIỆT NAM TÁN THÀNH
BẢN TUYÊN BỐ NGÀY 4-9-1958 CỦA TRUNG CỘNG
 
Từ 24-2 đến 29-4-1958, Liên Hiệp Quốc (LHQ) tổ chức hội nghị tại Gènève để bàn về luật biển.  Các nước hội viên tham dự ký kết bốn quy ước về luật biển (United Nations Convention on Law of the Sea) (UNCLOS):  1) Quy ước về hải phận và vùng tiếp giáp.  2) Quy ước về thềm lục địa.   3) Quy ước về hải phận quốc tế.  4) Quy ước về nghề đánh cá và bảo tồn tài nguyên sống ở hải phận quốc tế.  Riêng quy ước về hải phận và vùng tiếp giáp, các nước tham dự có lập trường khác nhau về chiều rộng của hải phận, và không có lập trường nào hội đủ túc số 2/3 để thành luật.  (http://untreaty.un.org/ilc/texts/instruments/english/conventions/8_1_1958_territorial_sea.pdf.)
 
Khi diễn ra hội nghị Genève về luật biển, CHNDTH chưa gia nhập LHQ nên chưa được tham dự hội nghị nầy.  Ngày 4-9-1958, CHNDTH đưa ra tuyên bố về lãnh hải, gồm có 4 điều theo đó điều 1 và điều 4 mặc nhiên khẳng định rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về lãnh thổ CHNDTH và gọi theo tên Trung Hoa là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].
 
Điều 1 và điều 4 trong bản tuyên bố của CHNDTH được dịch như sau: Điều (1) “Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc là 12 hải lý.  Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc”. Điều (4) “Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc...” (Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện.  (trích Internet).  Quần đảo Tây Sa (Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands.  Quần đảo Nam Sa (Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands.  Penghu = Bành Hồ.  Muốn tìm bản Anh ngữ, xin vào Google, tìm “Declaration of the Government of the Peoples’s Republic of the China on the Territorial Sea”.)
 
Cộng Hòa NDTH tự cho rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc CHNDTH, chỉ dựa vào bản đồ do chính quyền Tưởng Giới Thạch nghiên cứu và vẽ năm 1934. Chắc chắn, bản đồ nầy cũng có trong hồ sơ của Andrei Gro- myko tại hội nghị San Francisco năm 1951, nhưng hồ sơ nầy đã bị hội nghị bác bỏ vì thiếu bằng chứng lịch sử.  Ngoài ra, tuy từ đảo Hải Nam (CHNDTH) xuống tới Hoàng Sa là 140 hải lý, nhưng CHNDTH nói rằng từ đảo Hải Nam tới bãi đá ngầm (North Reef) của Hoàng Sa là 112 hải lý để chứng minh rằng quần đảo nầy gần CHNDTH hơn Việt Nam.  Tuy nhiên, bãi đá ngầm dưới mặt nước biển không phải là đảo nên cách lý luận trên không được quốc tế chấp nhận.  (Vũ Hữu San, Địa lý Biển Đông, Westminster: 2007, tt. 150-151.
 
Cộng Hòa NDTH đưa ra bản tuyên bố nhằm khẳng định chủ trương của CHNDTH mà không gởi riêng cho nước nào trên thế giới. Thế mà chỉ 10 ngày sau, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) tức Bắc Việt Nam (BVN), với sự đồng ý của chủ tịch BVN là Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng Lao Động, một tổ chức không có trong hiến pháp, nhưng thực tế cầm quyển tối cao ở BVN, vội vàng ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của CHNDTH. 
 
Phần chính công hàm Phạm Văn Đồng viết như sau:  “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt bể.

Hình 4 trai
 
Tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của CHNDTH có nghĩa là đảng Lao Động tức đảng Cộng sản Việt Nam tán thành điều 1 và điều 4 của bản tuyên bố của CHNDTH, theo đó CHNDTH tự xác nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của CHNDTH, hoàn toàn ngược lại với sử sách xưa của Việt Nam về chủ quyền nước ta trên hai quần đảo nầy.
 
Đảng Lao Động tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của CHNDTH, là hành động ngoại giao nhằm trả ơn CHNDTH đã viện trợ cho VNDCCH từ năm 1950 đến 1954, và còn nhằm chuẩn bị xin CHNDTH tiếp tục viện trợ quân sự để VNDCCH tấn công VNCH tức Nam Việt Nam.  Cộng Hòa NDTH giải thích rằng điều đó mặc nhiên nhà nước VNDCCH thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của CHNDTH.
 
Tháng 10-1959, nghĩa là một năm sau công hàm, Phạm Văn Đồng qua Bắc Kinh cầu viện CHNDTH.  Tháng 11-1959, CHNDTH gởi một phái đoàn sang BVN trong hai tháng, nghiên cứu tất cả những nhu cầu cần thiết của BVN.  Tháng 5-1960, lãnh đạo BVN và CHNDTH hội họp liên tiếp nhiều lần ở Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận chiến lược tấn công NVN. (Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tt. 82-83.)  Ngay sau đó, tại Hà Nội, đại hội III từ 5-9 đến 10-9-1960, đảng Lao Động đưa ra hai mục tiêu là xây dựng BVN tiến lên xã hội chủ nghĩa và giải phóng NVN bằng võ lực, động binh tấn công VNCH.
TIỀM NĂNG HOÀNG SA
 
Cộng Hòa NDTH mạo nhận Hoàng Sa là của CHNDTH có thể vì các lẽ:  1)  CHNDTH muốn làm chủ vị trí chiến lược Hoàng Sa trên Biển Đông để tiến xuống Đông Nam Á và chế ngự thủy lộ từ eo biển Malacca, vòng lên phía bắc tại vùng nầy. 2) Lúc đó, Hoàng Sa thuộc VNCH, hoàn toàn đối địch với CHNDTH.  Ngược lại, nếu VNDCCH làm chủ Hoàng Sa, thì VNDCCH có thể sẽ giao Hoàng Sa cho Liên Xô, cũng là điều hoàn toàn bất lợi cho CHNDTH.  3)  Cộng Hòa NDTH muốn tìm kiếm tài nguyên dưới lòng Biển Đông trong khu vực nầy, khí đốt và dầu hỏa.
 
Nguyên vào ngày 1-12-1970, chính phủ VNCH ban hành luật số 11/70 về việc tìm kiếm, khai thác dầu hỏa cùng những điều kiện về thuế khóa, lệ phí và hối đoái liên hệ.  Sau đó, chính phủ ban hành sắc lệnh số 3-SL/KT ngày 7-1-1971 thiết lập tại Bộ Kinh tế một ủy ban mệnh danh là “Ủy ban quốc gia dầu hỏa.  Ủy ban QGDH phụ trách việc nghiên cứu vấn đề thềm lục địa (nghị định số 571-NĐ/KT ngày 2-6-1971). Cuối cùng nghị định số 249-BKT/VP/UBQGDH/NĐ ngày 9-6-1971 công bố ý định cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm và khai thác dầu hỏa. (Công báo VNCH 1970, tr. 8573; CBVNCH 1971, tr. 642; CBVNCH 1971, tr. 3848; CBVNCH 1971 tr. 3857.)
 
Năm 1972, công ty Geological Service Inc (GSI) nghiên cứu khu vực trung và nam Hoàng Sa.  Tháng 6-1973, hai tổ hợp Anh Pháp là Roberto Research International Limited và Bureau d'Études Insdustrielles et de Coopération de l'Institut Français du Pétrole (BEICPIP) phối hợp làm báo cáo “Địa chất và Khai thác hydrocarbon ở ngoài khơi Nam Việt Nam”. 
 
Lúc đó, VNCH bắt đầu tổ chức cho các công ty ngoại quốc đấu thầu.  Những công ty trúng thầu đã khoan nhiều giếng, và vào tháng 10-1973 cho biết tại thềm lục địa Việt Nam, tiềm năng dầu hỏa là có thật.  (Trịnh Quốc Thiên, Những biến cố mất lãnh thổ - lãnh hải Việt Nam từ năm 939 đến 2002, VA: Nam Quan Ấn Quán, 2002, tt. 163-167.
 
Việc phát hiện tiềm năng dầu hỏa dưới đáy Biển Đông càng làm cho vấn đề Hoàng Sa thêm gây cấn vì tranh chấp quyền lợi kinh tế.
 
KẾT LUẬN
 
Trong lịch sử. quần đảo Hoàng Sa vốn thuộc Việt Nam, nhưng CHNDTH muốn bành trướng, tìm đường xuống Đông Nam Á và tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên dưới lòng Biển Đông, nên nhân cơ hội Liên Hiệp Quốc đưa ra luật biển tại hội nghị Genève từ 24-2 đến 29-4-1958, CHNDTH đưa ra tuyên bố ngày 4-91958, tự nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của CHNDTH.  Thế mà cộng sản Bắc Việt Nam lại tán thành bản tuyên bô trên đây của CHNDTH, tức mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo nầy là của CHNDTH.  Như thế, cộng sản Việt Nam không thể tránh khỏi tội phản quốc là tội bị lên án nặng nề nhứt trong lịch sử cổ kim đông tây. 
 
Khi cộng sản Băc Việt Nam kéo rốc quân xuống tấn công Nam Việt Nam, chiến tranh trở nên ác liệt, CHNDTH liền nhân cơ hội nầy, tấn công Hoàng Sa ngày 19-01-1974.  
 
Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu anh dũng để bảo vệ hải đảo do tiến nhân để lại, nhưng cuối cùng đành thất bại trước lực lượng đối phương rất hùng mạnh, đã chuẩn bị kỹ càng kế hoạch xâm lăng.  (Trích từ sách Chiến tranh 1954-1975, cùng tác giả, Nxb. Non Nước, Toronto, xuất bản 01-2022,)
 
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, CANADA)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi ai đó qua đời, thường thì họ sẽ được ướp xác, đặt trong quan tài và chôn cất tại nghĩa trang (thổ táng), hoặc mang đi hỏa táng, phần tro cốt sẽ được trả lại cho gia đình, người thân. Tuy nhiên, thổ táng và hỏa táng nay đã không phải là các lựa chọn duy nhất. Ngày càng có nhiều nhà tang lễ, cả các công ty khởi nghiệp và tổ chức vô vụ lợi, cung cấp cho mọi người những nghi thức khác nhau dành cho người đã khuất. Trong tương lai, bối cảnh nghi thức tang lễ sẽ đa dạng hơn…
Đã mấy năm nay, một nhóm tên "Sinh viên tranh đấu cho được nhập học công bằng" (Students for Fair Admissions) kiện Đại Học Harvard về tình trạng mà họ cho là bất công lúc xét các ứng viên Á châu nộp đơn vào trường đại học ưu tú này của Mỹ. Nhóm này cho rằng Harvard thực hành “affirmative action” (hành động khẳng định) và "racial balancing" (quân bình chủng tộc) trong quá trình quyết định ai được nhận ai bị từ chối. Nếu không, theo họ, nếu chỉ căn cứ trên thành tích học tập (academics) tỷ lệ sinh viên Á châu được nhận sẽ là 43% tổng số, hay ít lắm 26% nếu xét thêm về hoạt động ngoại khóa, thể thao hay gia đình quen biết với trường ("legacy"); chứ không thấp như mức 18.7% như hiện nay.
Cuộc chiến trên đất nước chúng ta chấm dứt đã gần nửa thế kỷ và được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Bài nầy xin trở lại vấn đề gọi tên cuộc chiến để hiệu đính và bổ túc thêm bài trước cách đây khá lâu của cùng người viết.
Các nhà quan sát đương thời có thể khá ngạc nhiên khi biết rằng nguồn gốc của cụm từ “affirmative action” – cụm từ chứa đầy ý nghĩa trong bối cảnh chính trị ngày nay – có vài phần bí ẩn. Nói rộng ra, Affirmative Action (tạm dịch là Chính Sách Nâng Đỡ Người Thiểu Số) đề cập đến các chính sách và thực tiễn được thiết kế để tăng cơ hội cho các nhóm người thiểu số như người da màu trong lịch sử. Trong tuần này, quyết định của Tối Cao Pháp Viện (TCPV) về chính sách “affirmative action” sẽ đem đến những thay đổi đáng kể trong tương lai tuyển sinh ở các trường đại học trên khắp Hoa Kỳ. Vào ngày 29 tháng 6, TCPV đã ra phán quyết rằng các trường cao đẳng và đại học tư thục cũng như công lập không còn được coi chủng tộc là một yếu tố xem xét trong tuyển sinh, đảo ngược tiền lệ pháp lý trong suốt 45 năm qua.
Các diễn biến cực kỳ sôi động về nội chính và bang giao quốc tế trong cuộc chiến tranh Đông Dương làm cho Hoa Kỳ thay đổi chiến luợc chống Cộng Sản từ hình thức trung dung sang ủng hộ Pháp. Vì sao Hoa Kỳ phát triển chính sách này lên cực điểm?
Nước Việt Nam được quốc tổ Hùng Vương sáng lập với quốc hiệu đầu tiên là Văn Lang. Các vị vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu là Hùng Vương cả, chỉ phân biệt các đời vua theo con số thứ tự. Đến đời Hùng Vương thứ 18 thì một phiên thuộc là Thục Phán nổi lên đánh bại nhà vua và chiếm mất ngôi vào năm 257 trước Tây Lịch (TL). Thục Phán xưng hiệu là An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Loa Thành (Phong Khê, Phúc Yên)...
Ở Capitol Hill và các tòa án, các nhà lập pháp và nhà hoạt động của Đảng Cộng Hòa đang tiến hành một chiến dịch pháp lý sâu rộng nhắm vào các trường đại học, các tổ chức tham vấn, các công ty tư nhân và các cá nhân nghiên cứu về sự lan truyền của thông tin sai lệch. Những người này sẽ bị cáo buộc là thông đồng với chính phủ để đàn áp phát ngôn của phe bảo thủ trên mạng.
Vào mùa thu năm ngoái, một tòa án ở Đức đã xét xử một vụ án bất thường. Đó là một vụ kiện dân sự phát sinh từ đề tài trên Twitter về việc liệu những người chuyển giới có phải là nạn nhân của Holocaust hay không. Mặc dù không còn nhiều tranh luận về việc liệu những người đồng tính nam và đồng tính nữ có bị ngược đãi hay không, nhưng có rất ít nghiên cứu về người chuyển giới trong thời kỳ lịch sử tối đen này.
Mùa hè đến rồi! Mùa của những chuyến du lịch. Người Việt ở Mỹ mùa hè thường đi thăm danh lam thắng cảnh ở Mỹ, hoặc về Việt Nam, hoặc thực hiện những chuyến đi Châu Âu, đi thăm vùng đất của lịch sử, văn hóa Tây Phương. Đến Châu Âu, những quốc gia thường được khách du lịch nhắc đến nhiều nhất vẫn là Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha. Ngoài ra, Hòa Lan là một quốc gia nhỏ bé, hiền hòa, những cũng có nhiều thứ thu hút khách du lịch. Nói đến Hòa Lan là nói đến những cánh đồng hoa tulip đầy màu sắc; những chiếc cối xay gió soi bóng trên những dòng kênh xanh; hay thành phố Amsterdam tự do cấp tiến, có khu phố “Đèn Đỏ” với dịch vụ mãi dâm được chính thức và công khai hóa.
✱ BNG: “Chúng ta không thể tiếp tục chấp nhận một chính phủ trung ương có hai tổng thống” nên "thời điểm quyết định" nổ ra dẫn đến vụ “bắn lầm”? ✱ Secretary Clifford: Tổng thống nên cử một số quan chức Chính phủ đến dự lễ tang, để thể hiện sự quan tâm. Kỳ có thể không nghĩ đó là một tai nạn. ✱ CIA: Đại sứ Bùi Diễm, đặc phái viên của Sài Gòn tại Paris, nói với phía Hoa Kỳ rằng ông ta hy vọng qua trung gian Việt kiều (tại Pháp) sẽ giúp ông liên hệ với phía Bắc Việt. ✱ NARA: Số tiền “ The Five Million Piastres” đã chi ra để ủy lạo quân sĩ tham gia cuộc đảo chánh, và số tiền này “ the money was given to Don” (nhưng báo chí VN loan tải số tiền là 3 triệu). Ngoài ra, còn có số vàng lá 40 kí lô (forty kilograms of gold bars) tịch thu trong cuộc đảo chánh...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.