Hôm nay,  

Bếp Lửa, Trong Trại Tù Và Nơi Quê Người

02/04/200100:00:00(Xem: 5029)
Tác phẩm The Wind-Up Bird Chronicle (nhà xb Knopf, 1997), của nhà văn người Nhật, Haruki Murakami, mở ra bằng giọng văn quen thuộc của ông: Tôi đang làm món spaghetti ở trong bếp, chuông điện thoại reo. Spaghetti gần xong. Radio, một đài FM. Tôi huýt sáo theo bài La Gaza Ladra của Rossini. Nấu món pasta mà có nhạc này đi kèm thì thật tuyệt.

Nhưng liền đó, người đọc bị cuốn hút vào cơn ác mộng của nước Nhật: cuộc tàn sát binh sĩ Thiên Hoàng, bởi chiến xa Xô-viết, vào năm 1939, tại một vùng sa mạc Nomonhan, Mông Cổ. Khác hẳn những cuốn trước sặc mùi bơ, cuốn này sặc mùi máu. Độc giả cảm thấy mùi máu nóng bỏng trên những trang sách. Cảnh tàn sát những con thú vườn Zoo, trước khi chiến xa Xô-viết tiến vào thành phố: trước hết là những con báo, rồi tới chó sói, sau cùng là những con gấu. Chúng lâu chết nhất, dù đã hứng hàng chục viên đạn; đám thú điên cuồng gầm thét, rẫy rụa như muốn giật tung những chấn song chuồng giam, trước sự khiếp đảm của đám binh sĩ. Đối với họ, giết người ở mặt trận dễ dàng hơn nhiều, so với việc giết thú ở trong chuồng. Rồi những cảnh tượng phát ớn lạnh: lột da nạn nhân, từ đỉnh đầu trở xuống, một cách tỉ mỉ, từ tốn, thật "dễ thương", hoặc cảnh binh sĩ Nhật lấy hết sức lực thọc mạnh lưỡi lê vào bụng tù nhân Trung Hoa, rồi ngoáy...

Theo ông, chiến tranh là chuyện nghiêm trọng: nó đẩy sự xung đột cá nhân với nhà nước tới mức tột cùng. Vào năm 1994, ông viếng thăm vùng sa mạc kể trên, và đột nhiên, ông "mặc khải". Cuộc đời ông thay đổi hoàn toàn: Tôi có cảm tường tôi đã tham gia trận đánh. Giữa vùng biên giới, sa mạc khô cằn, ông nhận ra ông hết còn trông mong trốn chạy nỗi khiếp sợ: Xã hội Nhật bản, con bạo động phi lý của nó. Cuộc chống trả vô ích, vô vọng của binh sĩ Nhật bản trước chiến xa Xô-viết làm ông nhận ra tính cực kỳ phi lý của quân đội Nhật: sự tin tưởng mù quáng vào chiến thắng, chỉ với tinh thần cuồng nhiệt và ân sủng của Thiên Hoàng.

Người Nhật không tin vào mặc khải. Riêng Murakami đã hai lần mặc khải. Lần đầu, tại một sân vận động ở Tokyo, khi đang có trận đấu baseball giữa hai đội Mỹ và Nhật. Ông đang theo dõi một đường banh, và đột nhiên nhận ra, ông có thể viết một cuốn tiểu thuyết. Tuy không biết tại sao, nhưng ông hiểu như vậy. Đó là tháng Tư, 1978, ông 29 tuổi. Mười lăm năm sau, là ở Nomonhan, Mông Cổ. Giữa hai lần mặc khải là câu chuyện lạ thường của một nhà văn mơ tưởng chuyện hải hồ, "lưu vong", nhờ vậy lại khám phá ra quê hương của mình.

Một điều kỳ cục, đó là tính bạo động, sự độc ác của chiến tranh ở trong The Wind-Up Bird Chronicle không liên quan gì tới những tác phẩm trước đó. Tác giả tuyên bố: Nếu ông không sống ở Mỹ, tức là ở nước ngoài, ông không làm sao có thể viết nổi tác phẩm đó. Như thể ông bắt buộc phải rời bỏ quê hương, rồi mới tìm thấy con đường trở về. Kinh nghiệm, quê hương tìm thấy lại của ông thật là quí báu đối với chúng ta. Nên nhớ, Murakami mặc khải là nhà văn vào tháng tư 1978. Vài năm trước đó, như một số sinh viên Nhật, ông tin rằng người Nhật có thể đem lại một giải pháp hòa bình cho Việt Nam.

Murakami nổi tiếng nhất, trong số những nhà văn cuối thập niên 70, và là người quan trong nhất. Tuy nhiên, có một điều kỳ cục ở trong những tác phẩm của ông: sự thiếu vắng hoàn toàn truyền thống văn hoá Nhật bản. Nhân vật của ông ăn pizza, steaks, hay pasta. Nghe Ella Fitzgerald hay Rossini. Mặc những bộ sharp suits, áo sơ mi đúng style. Khi kẹt trong thang máy, họ huýt sáo theo điệu Danny Boy. Một trong những cuốn sách ăn khách nhất của ông (trên hai triệu ấn bản), Norwegian Wood, nhan đề là từ Beatles. Ở Nhật, họ gọi những người như ông là batasukai (sặc mùi bơ), một từ để chỉ những người nước ngoài, hoặc bị Âu hóa. Những nhà văn cuối thế kỷ của Nhật, ăn bận như những tay lang thang ở Paris, mơ tưởng Baudelaire, kể những cuộc tình của họ, ở trong những ổ nhện tại Tokyo, họ đều có mùi bơ. Murakami cũng vậy, và đây là một trong những thói chơi ngông của ông. Thanh niên Nhật tính phong thái tự chủ, bất cần đời, cùng vẻ diễu cợt của ông.

"Vâng thật kỳ lạ. Baseball là môn thể thao của Mỹ. Cái tay đánh cú banh bữa đó là cầu thủ Mỹ. Mặc khải của tôi cũng không có vẻ Nhật một chút nào. Dân Nhật không có quan niệm về mặc khải." Ông mê Tây phương từ rất sớm. Nhất là những ẩn dụ, điển cố Mỹ. Cậu bé học sinh rất ghét bộ đồng phục, tinh thần nhóm, luật lệ, cá nhân nép mình theo tập thể, gia đình... Để trốn chạy, ông mơ tưởng nước Mỹ, cố tạo nên một nước ngoài, ở ngay trái tim của mình. Ông mua những cuốn sách Mỹ, ở một tiệm sách rẻ tiền, nơi lui tới của những người thuỷ thủ Nhật. Nghe nhạc Mỹ trên băng tần FM. Đó là một cách để cảm thấy mình được tự do, ít ra về phương diện tinh thần. Học ngoại ngữ cũng là muốn trở thành một người khác. Ước muốn chui vào làn da của một người khác đã khiến ông trở nên một dịch giả có hạng. Raymond Carver, Grace Paley là những tác giả ông ưa dịch.

Murakami dùng từ thực tại ảo (virtual reality), để diễn ta thái độ kỳ quặc, lòng mê say nước Mỹ của ông. Tôi muốn thực hiện thực tại "ảo" đó, ở ngay trong trái tim tôi. Cũng dễ thôi, vì tôi lúc đó chỉ là một đứa trẻ.

Ông nhớ lại những cảnh tàn bạo ở đại học Waseda, trận động đất Kobe, vụ giết người bằng hơi độc ở Tokyo. Bạo động là chìa khóa đối với Nhật bản. Và đó là mặc khải ở sa mạc Mãn châu đối với ông.

Murakami "lại khám phá ra" Nhật bản, khi đang dạy môn văn chương Nhật tại đại học Princeton. Lần đầu tiên, ông quan tâm đến lịch sử và văn chương Nhật. Ông nghiên cứu trận đánh Nomonhan tại thư viện đại học. Nó làm ông sững sờ: đây là một thí dụ hoàn hảo, về bạo động phi lý, và sự hi sinh vô ích những cá nhân cho giấc mộng điên cuồng của tập thể.

Sự quan tâm mới mẻ của ông đối với Nhật bản của ông còn là do cuộc sống riêng tư. Càng ngày ông càng nhận ra hố ngăn cách giữa ông và cuộc sống thực sự tại Mỹ, xứ sở mà ông đã từng mơ mộng. Khi ở Nhật, ông muốn sự độc lập riêng tư. Tôi muốn được tự do. Sang Mỹ, ông nhận ra, người Mỹ coi tự do và độc lập cá nhân là những điều được đảm bảo, for granted. Thực tại trần trụi, cuộc sống vô vị, nhạt nhẽo ở đây làm ông vỡ mộng. "Ở Mỹ nghe Jim Morrison không giống như khi nghe ở Nhật". Những ẩn dụ Tây phương mất hết sự bí mật của chúng. "Tôi không cần đến chúng nữa". Và ông quyết định ôm lấy quê hương, chấp nhận trách nhiệm chính trị của mình.

Khi được hỏi, như vậy nghĩa là gì, ông giải thích: 'Vấn đề quan trọng là đối diện với lịch sử của chúng tôi. Và như vậy có nghĩa là lịch sử của chiến tranh".

Jennifer Tran

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
✱ HĐ Tham Mưu Trưởng LQ/JCS: Tổng thống Kennedy và Johnson đều không tin tưởng vào các cố vấn quân sự của họ, vì cho rằng các tướng lĩnh và đô đốc thiếu sự tinh tế về mặt chính trị - Giới quân sự bất bình vì "coi lực lượng quân sự là công cụ để thương lượng về mặt ngoại giao". ✱ McNamara: Một khi bổ sung quân số sẽ tăng thêm chi phí về nhân sự, về chính trị và kinh tế do cuộc chiến gây ra, làm suy giảm khả năng của quốc gia một khi cuộc chiến kéo dài. ✱ JCS: McNamara chủ trương tìm kiếm một giải pháp hòa đàm về cuộc chiến - thúc giục Hà Nội đi đến bàn đàm phán hòa bình...
Vậy “bánh Dày” phải có nghĩa là “bánh Trắng”, có lẽ dễ hiểu hơn là dày phản nghĩa với mỏng hay dày vò như vài người đã cắt nghĩa. Từ đây, phải chăng “Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên” của Nguyễn Du tả nét đẹp thân thể nàng Kiều cũng có nghĩa là trắng. Nét đẹp này hoàn toàn phù hợp thẩm mỹ quan của Việt Nam xưa nay. Người phụ nữ đẹp phải có nước da trắng. Nó vừa đẹp, vừa sang vì không phải lam lũ dưới mưa nắng...
Tết Nguyên Đán (Tết Cả) là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới. Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý (ăn quả nhờ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng ...
Theo bản Hán dịch của ngài Cưu-ma-la-thập, Kinh Pháp Hoa có 7 quyển gồm 28 phẩm. Trong nội dung Kinh, Đức Phật dạy về mục tiêu xuất thế của Ngài là để “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” cho chúng sinh. Cho nên, việc Ngài nói pháp Ba Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát Thừa) chỉ là phương tiện để dẫn dắt chúng sinh theo căn cơ nhưng mục tiêu tối hậu là Nhất Thừa, tức là thành Phật như Ngài...
Anderson tập trung vào cách các phương tiện truyền thông tạo ra cái gọi là “các cộng đồng tưởng tượng”, đặc biệt là sức mạnh của phương tiện in ấn trong việc định hình tâm lý xã hội của một cá nhân. Anderson phân tích chữ viết, một công cụ được sử dụng bởi các giáo hội, tác giả và các công ty truyền thông (đặc biệt là sách, báo và tạp chí), cũng như các công cụ của chính phủ như bản đồ, kiểm tra dân số (census) và viện bảo tàng. Tất cả các công cụ này đều được xây dựng để nhắm vào đại chúng thông qua những hình ảnh, hệ tư tưởng và ngôn ngữ đang chiếm giữ ưu thế. Ví dụ, Anderson phân tích một cách sâu sắc về nguồn gốc văn hóa và tôn giáo của một biểu tượng rất điển hình của chủ nghĩa dân tộc hiện đại: các đài chiến sĩ trận vong với người lính vô danh.
Thánh Kinh nói thế. “Homosexuality is sin". “Đồng tính là tội lỗi.” Sự thật thì sao??? Lần đầu tiên từ “đồng tính" xuất hiện trong Thánh Kinh là năm 1946, khoảng một ngàn chín trăm mười năm sau khi chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự. Trong gần 80 năm qua, nó làm nền tảng cho không biết bao phân biệt đối xử, gây bao đau thương chết chóc cho những người đồng tính.
Quan điểm chính trị thường đươc chia làm hai phe: bảo thủ và cấp tiến. Người bảo thủ có nhiều quan điểm trái ngược với người cấp tiến. Người cấp tiến còn gọi là "khuynh tả", có khi được cho là "thân cộng". Chữ "liberal" được dùng với hàm ý miệt thị. Thật ra thì không đơn giản như vậy. Xin đọc tiếp.
Một câu hỏi phức tạp, gây tranh luận sôi nổi và trở lại Tối Cao Pháp Viện (TCPV) vào mùa thu này: Điều gì sẽ xảy ra khi quyền tự do ngôn luận và quyền công dân xung đột với nhau?
Có một câu hỏi còn bỏ ngỏ cho các chuyên gia và các nghiên cứu gia: Có phải hiện nay có nhiều người Mỹ tin vào các thuyết âm mưu hơn bao giờ hết không? Tốt nghiệp xong bằng Tiến Sĩ Triết Học, Keith Raymond Harris thực hiện một cuộc nghiên cứu về các thuyết âm mưu chỉ ra mối lo ngại rằng việc tập trung vào tìm hiểu bao nhiêu người Mỹ tin tưởng các giả thuyết về âm mưu có thể khiến chúng ta lơ là quên đi những mầm hiểm họa tự các thuyết âm mưu này gieo rắc.
Lãi suất tăng đều đặn đã khiến người tiêu dùng và doanh nghiệp ngày càng tốn kém khi đi vay – để mua nhà, xe và các giao dịch hàng hóa khác. Và gần như chắc chắn sắp tới sẽ có thêm nhiều đợt tăng lãi suất nữa. Các viên chức FED được cho là sẽ phát tín hiệu lãi suất chuẩn có thể lên tới 4.5% vào đầu năm tới. Một chuỗi các đợt tăng lãi suất sẽ khiến nền kinh tế Mỹ có nguy cơ rơi vào suy thoái, đồng nghĩa với thất nghiệp, sa thải nhân viên và tạo áp lực lên giá chứng khoán. Bài này nêu lên những thắc mắc và trả lời thiết thực dành cho người tiêu dùng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.