Hôm nay,  

CHỮ QUỐC NGỮ, TIẾNG VIỆT NAM, VÀ TU SĨ ALEXANDRE DE RHODES

27/02/201300:00:00(Xem: 11247)
Đại hội 48-55 năm nay các bạn đồng khoá giao cho tôi công việc nhẹ nhàng gần như tượng trưng. Đó là đọc và nhặt lỗi chính tả những bài gửi đến. Vậy mà tôi chưa đọc được một bài, vì một vấn đề nguyên tắc: lấy tiêu chuẩn gì mà sửa chính tả của bạn bè.

Khi viết lách tôi thường dùng những tự điển Việt ngữ phổ thông. Nhưng hiệu đính chính tả người khác, tôi phải cẩn thận hơn. Tôi tự hỏi các tự điển tôi thường dùng căn cứ vào đâu mà xác định cách đánh vần. Tìm kiếm thêm chút nữa, tôi khám phá ra là những sách tôi có đều không xuất xứ. Như một thứ tác phẩm mồ côi, chúng không dựa vào thẩm quyền nào khi chọn lựa chính tả.

Mơ màng đi ngược dòng thời gian, tôi nghĩ đến cuốn tự điển đầu tiên ngày xưa thầy giáo nhắc tới. Đó là cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL) do tu sĩ dòng tên Alexandre de Rhodesin tại Roma năm 1650, cùng với cuốn 'Phép Giảng Tám Ngày ...' của ông.

Mong ước cầm được trong tay cuốn sách hiếm của De Rhodes là chuyện viển vông. Cuốn DALeL xuất bản hơn 300 năm trước tại Roma không tái bản lần nào, một vài bản có còn tồn tại chắc được các viện bảo tàng cất kỹ trong lồng kính. Để tự an ủi, tôi nghĩ cuốn sách cổ dù có cầm trong tay, chưa chắc nội dung đã phù hợp với tiếng Việt bây giờ.

Cứ như vậy, tôi sinh hoạt trong nghề văn với chính tả có độ chuẩn tương đối, định bụng một ngày nào rảnh rang sẽ bỏ công ra tra cứu vấn đề đến tận ngọn nguồn. Nấn ná suốt bảy năm trung học tôi đã không có dịp thi hành ý định. Rồi bảy năm y khoa tiếp nối, tôi vẫn viết lách với chính tả tương đối của mình. Hai năm trung úy quân y trưng dụng quá bận rộn vì y khoa cấp cứu thời chiến, tôi cũng không làm được gì cho mối tư lự về chính tả bấy lâu trăn trở.

Khi về hưu tưởng đã quên, nhưng một sự việc nhỏ nhặt vô tình nhắc lại chuyện cũ, nhân một hôm đi nghe đoàn nghệ sĩ của Rio de Janeiro trình diễn dân ca Ba Tây tại hí viện ngoài trời Hollywood Bowl. Không hiểu lời, nhưng tôi thú vị tức thì với âm hưởng tiếng Bồ Đào Nha được nghe lần đầu.

Tôi đã đọc đâu đấy rằng tiếng Bồ của Ba Tây rất chuẩn so với chính quốc. Lý do là Ba Tây không phải là một thuộc địa tầm thường như các thuộc địa khác. Vùng đất Nam Mỹ này có thời đã là trụ sở chính của vương quốc Bồ. Khi Napoléon chinh phục hết nước này đến nước khác tại Âu châu, vua Bồ thấy bất an đã đưa cả hoàng gia và triều đình sang đóng đô tại Rio. Napoléon sau cùng thất trận phải đi đày nơi hải đảo, vua Bồ trở về ngai vàng chính quốc nhưng để con trai lại thay vua trị vì Ba Tây... Có lẽ do đó Ba Tây có ngôn ngữ không những rất chuẩn, mà âm hưởng lại có gì vương giả.

Trở lại buổi đi xem trình diễn dân ca Ba Tây tại Hollywood Bowl. Lúc tôi thiu thiu với cơn gió đêm mát rượi của hí viện ngoài trời, một hiện tượng như mơ như thực xảy ra. Tôi vẫn không hiểu tiếng Bồ, nhưng có lúc mơ màng bỗng thấy nhạc Bồ có gì gần gũi. Rồi có lúc tôi cảm thấy như nghe được tiếng Việt xen kẽ giữa những lời ca ngoại quốc. Trong tâm thức một đoàn âm thanh quen thuộc kéo về. Chúng gồm những phụ âm kép mà tôi vẫn nghĩ chỉ tiếng Việt mới có, như NG hay TH ở đầu hay cuối một số từ. Rồi một lũ nguyên âm trầm bổng với đủ năm dấu sắc huyền hỏi ngã nặng kéo theo. Nửa thú vị nửa ngỡ ngàng, tôi như người lữ khách một chuyến du lịch nơi xa lại gặp một đoàn trẻ con trong họ chạy tới xúm xít vây quanh.

Cuộc sống bận rộn lại làm tôi quên vụ nhạc Bồ có âm hưởng Việt, cũng như ý định giải quyết mối thắc mắc kinh niên về chính tả. Nhưng không quên hẳn được, vì hai năm sau tôi có dịp đi du lịch Ba Tây. Tôi may mắn vì ngoài anh hướng dẫn viên chính thức lại có cô sinh viên sắp tốt nghiệp khoa du lịch xin đi theo tập sự (coi ảnh đính kèm). Cô bé sõi tiếng Anh, nhưng nói tiếng Bồ khi trao đổi với bác tài xế cũng là người địa phương.

Nghe ngôn ngữ líu lo của họ, tôi lại bắt được đám nguyên âm và phụ âm quen thuộc cùng với năm dấu sắc huyền hỏi ngã nặng của tiếng mẹ đẻ. Tha hương, âm hưởng Việt Nam bất ngờ trong tiếng nói Ba Tây nghe ngọt như cam và mát như cơn mưa giữa trưa hè. Cảm giác đẹp như câu thơ cổ lớp Hán tự ngày xưa:

Đại hạn phùng cam vũ,
Tha hương ngộ cố tri.


Du lịch tại Nam Bán Cầu mà tôi thấy gần gũi với cảnh với người, cô sinh viên Ba Tây bỗng giống con cháu gái gọi tôi bằng ông ngoại.

Tôi nghĩ hòan cảnh thuận lợi để tìm hiểu tại sao tiếng Bồ nghe giống tiếng Việt. Tôi viết ra giấy chữ NGA bắt côgái đọc, hy vọng cô sẽ không đọc thành NHA như những người Pháp hay Mỹ. Cô không phạm phải lỗi phát âm ấy, chỉ thoáng ngạc nhiên là tại sao cô lại bị đem ra trắc nghiệm. Tôi lại bắt cô đọc NGA NGỦ NGON, mệnh đề ba chữ đã vặn lưỡi vô số người ngoại quốc. Cô đọc vẫn chuẩn. Không có vụ NHA NHỦ NHON như đám bạn người nước ngoài của tôi... Tôi đố thêm vài phụ âm nữa nhưng đặt ở đuôi của từ, như manG và manH, hay thanG và thanH xem cô gái có phân biệt được mang với manh hay thang với thanh không. Cô không gặp khó khăn gì. Cô còn thoải mái với mấy nguyên âm có bỏ đủ dấu sắc huyền hỏi ngã nặng.

Cảm giác vô lý có bà con ruột thịt với cô bé sinh viên Ba Tây làm tôi vui như tự nhiên được thêm đứa cháu gái. Đồng thời tôi nhớ đã đọc đâu đó rằng mẫu tự Quốc ngữ là do các tu sĩ Dòng Tên của Lisbonne soạn ra từ mẫu tự Bồ của họ để phiên âm chữ Nôm. Hèn chi cô gái đã thoải mái đọc được mấy từ và khóm từ Việt tôi đem ra đố. Thật là một sự tình cờ lý thú, cái thanh quản xinh xắn mảnh giẻ của cô cháu Ba Tây tình cờ lại khao khít với mẫu tự Việt và ngược lại. Thật là hú vía. Nếu bị phiên âm với một mẫu tự khác như Pháp hay Nga hay Anh chẳng hạn, tiếng Việt không biết bây giờ sẽ ngọng nghịu như thế nào.
quoc-ngu_1
Cô sinh viên Ba Tây và tác giả phát âm tiếng Việt dễ dàng, thoải mái với mấy mấy nguyên âm đủ sắc huyền hỏi ngã nặng.
Tôi quyết định bỏ thời gian tra cứu vụ này. Bớt một số giờ vãn cảnh, tôi tìm đọc trên liên mạng những đề tài liên quan đến Việt ngữ xưa và nay. Tôi tìm hiểu vụ các tu sĩ dòng Tên Lisbonne hà cớ gì sang tận Việt Nam trên ba trăm năm trước để sáng chế ra lối viết mới. Tại sao số từ họ phiên âm ba bốn thế kỷ trước đã ngưng lại tại mức 8000. Từ cuốn DALeL của Alexandre de Rhodes cho đến cuối thế kỷ XIX khi được thực dân mang ra xử dụng, không thấy một cuốn tự điển mới của nhà Dòng với nhiều từ hơn. Và tôi cũng tò mò về một tu sĩ đặc biệt làm việc trong nhà Dòng Hà Nội thế kỷ 17 là ALexandre de Rhodes.

Pháp đánh giá công lao của De Rhodes rất cao trong việc phiên âm chữ Nôm ra tiếng La-tanh, và những vinh hoa họ dành cho ông có vấn đề lạm phát trầm trọng. Bắt chước người Pháp, một số không nhỏ người Việt thời Bảo hộ cũng cực kỳ quý trọng ông.

Mặt khác, ngay thủa sinh thời De Rhodes lại bị hai người Việt quý tộc đánh giá rất thấp và xếp vào thành phần bất hảo. Đó là chúa Trịnh của xứ Đằng Ngoài và chúa Nguyễn của xứ Đằng Trong. Người thì trục xuất De Rhodes, người thì hạ ngục đương sự, thậm chí khi đem ra xét xử lại giáng cho cái án tử hình (như đã nói ở trên, án này về sau được chúa Nguyễn ân xá và tội được cải thành biệt xứ...)

De Rhodes về lại Âu châu qua đường Macao, in hai cuốn sách của ông tại Roma. Ông tiếp tục vận động để được trở về Việt Nam. Sau nhiều cố gắng không kết quả với Lisbonne và Roma, De Rhodes vận động vua Pháp lưu ý đến Việt Nam, và cố vấn vua nên cạnh tranh truyền giáo với Bồ Đào Nha (tổ quốc ông), Tây Ban Nha (nguyên quán ông), và với các nước Âu châu khác có tham vọng mục vụ tại vùng đất này.

Lần này thì ông thành công, và vua Pháp xuất quỹ ra thành lập hội truyền giáo hải ngọai Pháp với trụ sở tại Paris, bước đầu để mang giáo hội Pháp vào Việt Nam. Nhưng ông chưa kịp về lại Việt Nam dưới sự bảo trợ của vua và giáo hội Pháp, thì đã bị bề trên tại Lisbonne và Roma thuyên chuyển sang Iran và để ông ở đấy cho đến khi qua đời. Hai thập niên sau cùng, ông chưa chết mà đã bị lãng quên. Tên tuổi ông cũng như hai cuốn sách về tiếng An-Na-Mít do ông trước tác không được ai nhắc tới suốt 300 năm lẻ.

Chuyện bất ngờ xảy ra vào cuối thế kỷ 19. Người Pháp đã thôn tính xong miền Nam nhất định xóa bỏ ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa bằng cách dẹp bỏ chữ Nôm để thay thế bằng lối viết dựa trên mẫu tự La-tinh của các cha Bồ Đào Nha hơn ba thế kỷ trước. Pháp đem Alexandre de Rhodes ra suy tôn nhưmột thần tượng, thậm chí một vị thánh văn hoá cho dân thuộc địa. Những dữ kiện thu được nhờ một tối lang thang trên mạng làm tôi hăng hái truy lùng thêm những tài liệu về tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ và về Việt ngữ của chúng ta. Kết quả là một câu chuyện hy vọng có đầu có đuôi với khá nhiều tình tiết ly kỳ để mua vui cho các bạn đồng khoá.

Tiếng An Nam, thủa trứng nước

Từ đầu thế kỷ 17 hay sớm hơn nữa, những tu sĩ Dòng Tên tại nhà dòng Hà Nội bắt đầu phiên âm chữ Nôm bằng mẫu tự Bồ. Tôi không nghĩ các tu sĩ bấy giờ có phương tiện như phòng vi âm các đài phát thanh hay phòng thí nghiệm thính thị của một viện ngữ học bây giờ. Tôi đoán phương cách làm việc của họ đại khái như sau. Họ nhờ một người thông ngôn lanh lợi chọn trong đám nhân viên Việt của nhà Dòng đọc những từ chữ Nôm (văn tự chính thống bấy giờ). Tu sĩ lắng nghe nhiều lần cho đến khi thật quen tai thì phiên âm ra mẫu tự Bồ và ghi lên giấy. Từng từng chữ từng chữ một, tu sĩ và người phụ tá bản xứ hoàn tất một văn tự mới gọi là chữ An Nam, như tên gọi trong cuốn tự vị tam ngữ Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL) của Alexandre de Rhodes. Mớ ngữ vựng hoàn tất được mỗi lúc một nhiều, chẳng mấy chốc đủ dùng trong sinh hoạt hàng ngày của nhà Dòng như sai bảo người làm, luyện tiếng Việt cấp tốc (kiểu phrase book) cho các tu sĩ tân nhiệm từ Lisbonne mới qua, hay dậy giáo lý căn bản cho kẻ tân tòng bản xứ đang chuẩn bị rửa tội...

Tự điển DALeL của Alexandre de Rhodes sưu tập được khoảng 8000 từ. Con số này tất bao gồm cả những từ đã phiên âm của hai cuốn tự điển có trước soạn bởi các sư huynh của De Rhodes là Antonio Barbosa và Gaspar do Amaral. Danh từ An nam hay An nam mít xuất hiện từ đây, mới đầu chỉ để chỉ thứ văn tự mới, có lẽ đến thời Pháp thuộc cuối thế kỷ XIX mới có nghĩa coi rẻ coi thường.

Trừ hai cuốn sách của De Rhodes, toàn bộ tài liệu liên quan đến tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ bị thất lạc. Mất mát quan trọng là hai cuốn tự điển của Antonio Barbosa và Gaspar do Amaral. Không những ấn bản không còn, mà tất cả những bản nháp, bản thảo cũng không sót lại một tờ. Mất mát quan trọng không kém là văn khố của nhà dòng Bồ hơn ba thế kỷ sinh hoạt, gồm những tài liệu giảng huấn, những bài vở của các học viên, những bài giảng của các giáo viên... Sau cùng, người ta cũng không tìm được một tài liệu gì về công trình của tu sĩ bề trên Francisco de Pina, người đã vỡ lòng tiếng Việt cho De Rhodes khi đương sự mới từ Lisbonne sang nhậm chức...

Sự mất mát xảy ra bao giờ, không ai biết rõ. Ta có thể võ đoán là chuyện đó không xảy ra trong 300 năm đầu khi nhà dòng Bồ tại Hà Nội do giáo hội Bồ quản trị. Người Bồ không lơ là với tài sản văn hoá của người Bồ. Nhưng khoảng trên trăm năm cận sử, Bồ bàn giao nhà Dòng Hà Nội cho Pháp cùng những cơ sở tôn giáo khác của Lisbonne tại Việt Nam. Sự mất mát có thể xảy ra vào khoảng thời gian này. Phải đây là do chiến tranh loạn lạc liên miên, hay còn phản ánh nhiều lý do khác về chính trị, hành chánh, quản trị, hay kỳ thị và ganh tỵ giữa Bồ và Pháp.
quoc-ngu_2
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes
Huyền Thoại Alexandre de Rhodes

Dù vì nguyên do gì, sự thất lạc những tài liệu tiền phong về việc soạn tự điển tiếng An Nam làm De Rhodes trở thành người có tác phẩm xưa nhất trong lãnh vực. Dựa vào chuyện này và nhiều ý đồ khác, người Pháp tôn ông lên thành cha đẻ của Quốc ngữ (Le Père du Quốc Ngữ).

Sự vinh danh tất nhiên quá đáng, vì De Rhodes không phải là người sáng chế ra lối viết mới. Khi ông tới nhà Dòng xứ đằng ngoài thì bề trên Francisco de Pina và các sư huynh của ông đã khởi xướng việc này từ lâu. Ông cũng không phải là người độc nhất đã đánh vần số 8000 từ trong tự điển của ông. Như đã nói, trước ông đã có từ hai cuốn tự điển Việt Bồ và Việt Bồ La, một của Antonio Barbosa và một của Gaspar do Amaral. Chỉ tiếc là De Rhodes không ghi xuất xứ những từ ông sưu tập và bỏ vào Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL), nên hiện tại không biết bao nhiêu là công ông, bao nhiêu là công của người đi trước.

Tiểu sử của De Rhodes cũng phức tạp và mơ hồ như sự nghiệp của ông. Ông sinh năm 1593 tại Avignon, theo học chủng viện Roma, và tốt nghiệp khi mới 27 tuổi. Ông nguyên thủy được chỉ định sang Nhật Bản, nhưng gặp lúc nước này đang khủng bố giáo dân dữ dội, ông phải dừng lại Macao. Ông làm mục vụ sáu năm khi tại Macao khi tại Goa. Trong thời gian này ông học ngôn ngữ và tín ngưỡng của Trung Hoa. Không hiểu lý do nào, ông không nắm được chút nào văn hóa Á châu, và coi đó chẳng qua là chuyện dị đoan thậm chí phù thủy. Về sau, ông khai triển mớ kiến thức sai lầm này trong Phép Giảng Tám Ngày dành cho giáo dân Việt Nam với những phát biểu khiếm nhã về Phật Lão Nho của phương đông.

Như đã nói, tu sĩ trẻ tân nhiệm De Rhodes được học tiếng Việt với bề trên là Francisco de Pina. Với số vốn ngôn ngữ ấy, ông vào truyền giáo tại xứ Đằng Trong của Chúa Nguyễn năm 1924. Được hai năm, ông lại trở ra xứ Đằng Ngoài.

Sự cố quan trọng đầu tiên trong nghiệp vụ truyền giáo đến với De Rhodes khi Chúa Trịnh trục xuất ông (1630). Về Macao cơ sở hải ngọai quan trọng của Lisbonne, ông xoay xở vận động với giáo hội và 10 năm sau lại được sang Việt Nam (1640). Không về được Hà Nội vì cái án trục xuất vẫn còn đấy, ông vào Đằng Trong truyền giáo. Ở đây ông cũng đụng chạm với luật pháp địa phương. Năm 1645, chúa Nguyễn hạ ngục ông rồi kết án tử hình. Ông thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Tội chết được chúa ân xá vào phút chót, nhưng án trục xuất vẫn thi hành.

Bị cả hai miền Nam Bắc lần lượt đuổi đi, ông về lại Âu Châu. Mười năm ở đấy, ông năng nổ thỉnh cầu Lisbonne và Roma yểm trợ tài nguyên cho ông trở lại Việt Nam. Thời gian này ông mang tiếng khoác lác về bản thân, khoe con số 6000 tân tòng ông đã tự tay rửa tội. Ông cũng khoác lác trình bày Việt Nam như một vùng đất giàu có ngoan đạo và đông đúc giáo dân. Có lẽ vì De Rhodes thiếu trung thực trong những báo cáo trên nên cuộc vận động của ông đã thất bại. Ông bỏ Roma và Lisbonne để sang Pháp vận động vua Pháp thành lập hội truyền giáo Paris cho giáo hội Pháp. Không biết sợi rơm nào đã bẻ gẫy lưng con lạc đà, bề trên tại Lisbonne sau cùng thuyên chuyển ông sang Teheran. Từ đó về sau người ta không nghe nói ông vận động gì thêm để về lại Việt Nam. Ông qua đời năm 1660, hưởng thọ được 69 tuổi.

Cuộc sống của giáo sĩ De Rhodes tại Việt Nam đầy sự cố không phải không có lý do. Tu sĩ trong khi truyền giáo tìm cách thân thiện với cả hai miền Nam Bắc đang thù nghịch nhau. Dưới góc nhìn của các chúa Trịnh và Nguyễn, có thể họ cho ông là người bất hảo và trí trá.

Với các nhân vật quan trọng của Âu châu, ông xem ra cũng không trung thành với ai. Để thuyết phục Roma và Lisbonne yểm trợ ý đồ trở lại Việt Nam của mình, ông đã không ngần ngại tô điểm thành tích bản thân cũng phóng đại sự trù phú của Việt Nam. Khi không toại nguyện, ông cũng không ngần ngại chạy sang Paris khuyên vua Pháp nên thiết lập Hội Truyền Giáo Pháp để sớm xử lý mục vụ Viễn Đông mà cạnh tranh ảnh hưởng với giáo hội của các cường quốc khác. Tuy nhiên chưa kịp nhận phẩm hàm gì của vua Pháp, ông bị giáo hội Lisbonne đổi sang nhà dòng Ba Tư.

Sách Phép Giảng Tám Ngày, cũng có thể là nguồn gốc cho những vấn nạn đã xảy đến cho ông tại Việt Nam. Nói chung, người Việt chúng ta vua quan cũng như dân chúng coi trọng tôn giáo người khác. Chúng ta tin rằng từ bi là đức hạnh của mọi tôn giáo, và không có gì bất đồng với giáo lý Ky Tô. Vậy mà ngoài các chương giáo lý cổ điển, Alexandre de Rhodes sáng tác thêm chương Bốn với tựa là 'Những Đạo Vạy' để miệt thị tam giáo Phật Lão Nho cũng như mỹ tục thờ cúng tổ tiên. Lời lẽ khá thô lỗ, có chỗ ông gọi Phật là thằng Thích Ca... (coi phụ lục).

Ông đã dùng tài liệu 'Phép Giảng Tám Ngày' để rửa tội cho vô số tân tòng. Nội dung Chương Bốn, Những Đạo Vạy không còn bí mật với ai. Tai vách mạch rừng, thái độ miệt thị ông dành cho tôn giáo chủ nhà chắc đã đến tai các nhà chúa. Phải chăng đây là lý do trực tiếp làm hai lần ông bị trục xuất, và một lần bị hạ ngục với án tử hình.

Nhìn theo cái nhìn dài, De Rhodes coi rẻ văn hoá và tín ngưỡng Việt Nam đã làm hại đạo Thiên Chúa không ít. Nó tạo chia rẽ Lương Giáo, và gây khó khăn cho những tu sĩ đến sau. Tôi có nhiều bạn thân theo đạo Thiên Chúa mà chưa thấy ai có kiến thức giới hạn về tôn giáo và triết học Á Đông như De Rhodes. Tôi cũng chưa thấy ai đối đãi thô bạo với cốt lõi của văn hoá Việt Nam như khi đương sự bàn về Tam Giáo...

Hiếu động như vậy mà sinh thời Alexandre de Rhodes không đạt được vinh hoa gì đáng kể. Cuối cùng ông chết âm thầm tại Iran. Sự nghiệp ông tượng trưng bằng hai cuốn sách liên hệ đến tiếng An Nam cũng không thành công bao nhiêu. Âu châu vào thời ông quá bận tâm với những vấn đề quan trọng để lưu ý đến một chức sắc cấp trung hay cấp thấp, với hai ấn phẩm ích lợi giới hạn cho người Bồ giảng đạo tại Việt Nam. Ở Hà Nội, sách của De Rhodes cũng không hữu dụng. Nhà Dòng đã đầy đủ chuyên viên để phiên âm tiếng địa phương theo mẫu tự Bồ. Sự thật là chính De Rhodes còn phải đi học tiếng Việt với các sư huynh và sư phụ của ông tại đây. Ngoại trừ những bản làm quà tặng cho bè bạn và bề trên cũ, sách ông mang về nhà Dòng Hà Nội khác gì chở củi về rừng.

Bên trong giáo đường đã vậy, bên ngoài giáo đường tác giả cũng như tác phẩm kể như không ai biết đến. Người Việt Nam từ văn nhân thi sĩ đến vua chúa quan lại, mọi người thoả mãn với hai tiếng Hán và Nôm. Giấy tờ hành chánh dùng Hán tự, còn toàn bộ những sinh hoạt khác đều dùng chữ Nôm. Kể từ những văn bản thủa ban sơ như Văn Tế Cá Sấu, cho đến Sãi Vãi, Nhị Độ Mai, Trê Cóc, Hoa Tiên, Phan Trần, Lục Vân Tiên... và cho đến ba đại tác phẩm của đất nước là truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán, tất cả đều viết bằng tiếng Việt (chữ Nôm). Không ai làm thơ làm văn bằng chữ An Nam hay An Nam Mít của De Rhodes với 8000 từ đánh vần bằng mẫu tự Bồ. Suốt ba thế kỷ hơn, quên lãng là số phận của De Rhodes và sự nghiệp viết lách của ông.

Chuyện bể dâu Văn tự và Văn học

Tuy nhiên lịch sử có những bất ngờ. Tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ tưởng đã bị bụi thời gian phủ lấp, bỗng hồi sinh vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Lý do là Pháp một khi chiếm được Việt Nam nhất định triệt tiêu ảnh hưởng của Tầu. Văn tự là gốc rễ quan trọng của ảnh hưởng ấy, nên Pháp nhất định loại chữ Hán và chữ Nôm ra khỏi đời sống Việt Nam.

Nhanh chóng và dễ dàng Soái phủ Nam kỳ thay Hán tự bằng Pháp văn. Vừa nắm được chính quyền ba tỉnh miền Đông (1862), họ tức thì đặt một nền hành chánh trực trị có khuôn mẫu từ Pháp mang sang, với quan chức Pháp trực tiếp cai trị dân bản xứ. Tất cả văn thư đều viết bằng Pháp văn, từ công báo, giấy tờ hộ tịch, cho đến đơn từ của dân chúng và công văn các công sở... Nhu cầu thông tin giữa quan chức Tây và nhân dân Việt được giải quyết bằng thông ngôn. Đến 1867 Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây, và toàn bộ Nam kỳ trở thành nhượng địa Cochinchine. Dân chúng Nam Kỳ không còn là con dân Triều Đình, và tiếng Pháp trở thành văn tự hành chánh độc nhất.

Tiếp theo là Trung kỳ và Bắc kỳ. Vì những lý do phức tạp, Pháp không cai trị vùng đất cuối cùng của Triều đình như đã cai trị Nam kỳ. Họ để vua quan ta làm vì, nhưng lập một đội ngũ công chức cao cấp Pháp ngồi tại phủ toàn quyền và các tòa hành chánh tỉnh để cai trị tất cả. Họ nắm thực quyền kể cả quyền trả lương cho vua quan ta, nhưng lại mang danh xưng hiền lành là công sứ hay khâm sứ, tựa hồ họ chỉ đóng vai đại diện ngoại giao hay cùng lắm cố vấn cho chánh quyền Việt Nam. Nhưng quan Tây chỉ nói tiếng Tây là chuyện dĩ nhiên, và không kèn không trống Hán tự biến mất khỏi đời sống hành chánh.

Pháp thanh toán chữ Nôm song song với chữ Nho. Thật ra Pháp dư biết chữ Nôm cần còn phải thanh toán nhanh hơn. Nó là chữ viết mà cũng là tiếng nói của người Việt. Hình dạng gần gũi với Hán tự, chữ Nôm như cái gai trước mắt họ. Còn lối viết này ngày nào là họ còn chưa yên tâm trong ý đồ tiêu diệt toàn bộ ảnh hưởng Tàu trên con người và văn hoá Việt.

Bắt quần chúng thay đổi tiếng nói là chuyện vô cùng khó khăn chưa ai làm được, kể cả những bạo chúa. Nhưng thay đổi chữ viết là chuyện trong tầm tay người Pháp, nhất là các tu sĩ Bồ đã chế sẵn chữ An Nam từ hơn ba trăm năm trước. Tương kế tựu kế, Pháp lấy chữ An Nam thay thế chữ Nôm.

Theo nguyên tắc, tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ thoả mãn tất cả nhu cầu và chờ mong của Pháp. Không còn liên hệ hình dáng cũng như nội dung với Hán tự, chữ Annam sẽ giúp Pháp dứt khoát thanh toán ảnh hưởng văn hoá Trung quốc. Chút bất tiện nhỏ là số từ An Nam các tự điển tam ngữ các giáo sĩ để lại quá ít ỏi, lại dư thừa phần tiếng Bồ và tiếng La-tanh. Giải pháp cũng dễ dàng, Pháp chỉ việc cho đội ngũ thông ngôn bỏ phần Bồ và La-tanh đi và thay thế chữ Pháp vào. Quan trọng hơn nữa, những người Việt cộng tác với Pháp ra công phiên âm thêm những từ mới để xử lý những nhu cầu phức tạp ngoài giáo đường. Ta phải mở dấu ngọăc để ghi công những người Việt đã làm công việc này, với những cuốn từ điển xúc tích và chính xác hơn.
Trên phương diện tổ chức, ta công nhận sự siêng năng vượt bực của giáo chức Pháp tòng sự tại Soái phủ Nam Kỳ bấy giờ. Ba tỉnh miền Đông cụ Phan Thanh Giản mới mất cho Tây năm 1862, thì trung tuần tháng tư năm 1865 tờ Gia Định Báo bằng chữ An Nam ra đời. Trong khoảng thời gian ba năm, các giáo chức đã huấn luyện xong một quần chúng bản xứ đông đúc biết viết và đọc chữ An Nam để đóng vai ban biên tập cũng như độc giả cho tờ báo.

Rồi sách truyện bằng chữ An Nam nối đuôi theo báo chí xuất hiện. Trong khi lãnh thổ còn lại của Triều đình vẫn dùng Hán tự và chữ Nôm, dân Nam kỳ bắt đầu tiêu khiển với các truyện ngắn bằng tiếng An Nam như Người Buôn Ngọc, Thầy Lazaro Phiền, Câu Chuyện Một Tối Của Người Tân Hôn, vân vân... Báo chí và văn học bằng chữ An Nam vùng nhượng địa đi trước Bắc Kỳ và Trung Kỳ cả mấy thập niên.

Từ bàn đạp Nam Kỳ Pháp tiếp tục truy kích chữ Nôm tại vùng đất theo lý thuyết còn thuộc Triều đình. Bị áp lực từ mọi phía, Vua Khải Định sau cùng hạ chiếu chính thức hoá và chính thống hoá văn tự An Nam mà vua ban cho tên mới là Quốc ngữ (1918). Lúc này nhà Nguyễn đã mất thực quyền từ lâu, từ hành chánh đến tài chánh, đến quốc phòng, đến ngoại giao, đến lục lộ, đến canh nông, đến y tế, vân vân, và đến học chánh. Có lẽ học trò các trường bảo hộ đã học Quốc ngữ từ trước cả lệnh vua.


Viết xong đọan này, tôi không tránh được chuyện xấu tốt lẫn lộn trong lịch sử một quốc gia.

Tiếng An Nam và Chữ Quốc Ngữ.

Hai danh từ tiếng An Nam và chữ Quốc Ngữ thường bị dùng lẫn lộn với nhau. Sự lầm lẫn có lý do chính là cả hai loại văn tự đều chung một bảng mẫu tự dựa trên bảng mẫu tự Bồ Đào Nha. Nhưng sự giống nhau chấm dứt tại đây.

Tiếng An Nam gồm 8000 từ phiên âm bởi các giáo sĩ Bồ và đã được sưu tập bởi Rhodes để in trong tự điển DALeL. Tiếng An Nam có công dụng giải quyết nhu cầu nội bộ của nhà Dòng. Như đã nói chức năng của nó là giúp cho các giáo sĩ từ Lisbonne mới qua một mớ ngữ vựng tối thiểu để giao tiếp với dân bản xứ, và huấn luyện giáo lý cơ bản cho tân tòng muốn theo đạo Chúa, với những tài liệu trình độ như Phép Giảng Tám Ngày của Rhodes.

Với nhu cầu như vậy, xem ra vốn ngữ vựng của DALeL cũng đã đầy đủ. Gần bốn thế kỷ sau, nhu cầu nội bộ của nhà Dòng Hà Nội về tiếng An Nam có lẽ không gia tăng, nên ta không thấy một cuốn tự điển mới nào dày hơn ra đời. Nhu cầu cố định thì ngữ vựng cũng cố định.

Tiếng Quốc ngữ là tiếng Việt ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam viết theo mẫu tự Bồ.
Trái lại tiếng Việt tất nhiên có từ khi có nước Việt Nam. Nó phục vụ cho mọi nhu cầu của dân tộc, từ giao tiếp hàng ngày, yêu thương vợ chồng, dậy dỗ con cái, sinh hoạt học đường, văn chương thơ phú vân vân... Nó có một số ngữ vựng khổng lồ có thể diễn tả được mọi ý nghĩ, mọi ý niệm, dù phức tạp hay tế nhị đến đâu. Tất nhiên là nó có từ lâu, từ nhiều thế kỷ trước khi Tây tìm ra pho sách cổ là cuốn tự điển Rhodes làm khởi điểm để thay thế chữ Nôm.

Chỉ một truyện Kiều cũng đủ chứng tỏ sự giàu có của tiếng Việt. Truyện đủ ngữ vựng, đủ tinh tấn, đủ tế nhị, đủ hào hùng, đủ nên thơ để xử lý mọi tâm cảnh. Viết bằng chữ Nôm hay viết bằng mẫu tự Bồ Đào Nha, sự việc cũng thế thôi. Cái chân lý vẫn không đổi là Việt ngữ là một ngôn ngữ đã phát triển đến chỗ tinh hoa dù viết bằng phương pháp nào. Nói cách khác, Quốc ngữ hay Việt ngữ có lịch sử dài như lịch sử đất nước, chứa đựng tất cả văn hoá và văn minh Việt Nam.

Cái vốn 8000 chữ các cha Bồ để lại có giúp gì cho Quốc ngữ không? Sự thật là không có bao nhiêu. Những từ quá cũ sau ba bốn thế kỷ đã tự đào thải ra khỏi ngôn ngữ dân chúng. Nhiều từ khác cũng không dùng được vì đánh vần không chuẩn, như Trời đánh vần thành Blời, Bậy đánh vần ra Vạy, vân vân và vân vân. Chỉ cần đọc Phép Giảng Tám Ngày của Rhodes ta thấy ngay vấn đề của 8000 từ các giáo sĩ đã phiên âm mà để lại. Tại sao các tu sĩ Bồ đã phiên âm không chuẩn? Lý do hiển nhiên là phiên âm tùy thuộc rất nhiều khả năng nghe của người phiên âm. Nghe sai thì đánh vần sai. Những tu sĩ Bồ dù học vấn uyên thâm cũng ít khi có cặp tai của người bản xứ khi nghe tiếng Việt.

Khi mập mờ lẫn lộn Quốc ngữ với tiếng An Nam của tự điển Rhodes, Pháp muốn ta hiểu lầm rằng tất cả ưu điểm của Việt ngữ là nhờ phiên âm ra mẫu tự Bồ mà có. Hiểu lầm như vậy, ta phải ơn Rhodes vì ông là cha đẻ của Quốc ngữ. Pháp vun đắp cho sự ngộ nhận bằng đủ mọi cách.

Hình ảnh của Rhodes xuất hiện khắp nơi, từ bìa vở học trò cho đến con tem bưu điện. Những hội ái hữu Việt Pháp treo những tấm chân dung vĩ đại của ông. Sách giáo khoa bậc trung và tiểu học có những bài vô cùng kính phục và ưu ái, tri ân vị giáo sĩ gốc Avignon đã tận tình chế tạo cho Việt Nam một văn tự thích nghi để bước vào thời đại văn minh... Sau khi được Pháp ra công tô điểm, De Rhodes có thể sánh với các thánh hiền xa xưa như Thần Nông, Nhâm Diên hay Sĩ Nhiếp...

Lập luận tuyên truyền của Pháp không phải không có ảnh hưởng. Thời Cộng hòa của chính phủ miền Nam, ảnh De Rhodes vẫn được in trên tem bưu điện. Ngòai Bắc, tượng De Rhodes dựng tại vườn hoa bờ hồ Hòan Kiếm bị chính quyền cộng sản dẹp đi một thời gian, đến gần đây không rõ lý do gì được phục hồi và đặt lại tại công viên cũ.

Ta phải phục khả năng thuyết phục của người Pháp, khi khá gần đây một hoạ sĩ Việt Nam vẽ bức tranh lớn trình bày cảnh De Rhodes đã thành thánh, ân cần đưa thi hài cụ Nguyễn Văn Vĩnh vào thiên đường. Tôi không tin cụ Vĩnh muốn như vậy. Tất nhiên cụ đã qua đời trước khi bức tranh được vẽ, và cụ không thể cải chính được sứ điệp của người hoạ sĩ xu thời.

Có lẽ chi tiết có khả năng tổng hợp và nhất quán hóa nhất về huyền thọai Alexandre de Rhodes là Pháp tịch của tu sĩ. Huyền thoại này gom gọn tất cả những mập mờ về De Rhodes thành một chủ đề, là Việt Nam nợ nước Pháp một thánh nhân đã có công lớn mang lại văn tự và văn minh cho mình. Nhưng sự thật là sự thật, và trước khi sang đề tài khác, tôi xin xét lại từng nhược điểm chính của luận điệu thực dân:

1. Alexandre de Rhodes không phải là người Pháp. Cha ông gốc Tây Ban Nha và mẹ ông gốc Ý Đại Lợi. Thời De Rhodes, sanh quán Avignon của ông cũng không thuộc địa phận Pháp. Nhiều nhiều năm sau, Avignon mới sát nhập với Pháp.

2. Alexandre de Rhodes không phải là người có sáng kiến lấy mẫu tự Bồ để phiên âm chữ Nôm. Như đã nói, khi Rhodes tới Việt Nam thì nhà dòng Hà Nội đã phiên âm tiếng Việt từ lâu. Chính họ đã vỡ lòng De Rhodes về tiếng Việt phiên âm bằng mẫu tự Bồ của họ.

3. Cuốn tự điển của Alexandre de Rhodes là một sưu tập từ ngữ không mấy hữu dụng. Như đã nói, không kể sự già cỗi bắt buộc sau hơn ba thế kỷ đông lạnh, một phần không nhỏ của 8000 từ sưu tập đã bị đánh vần sai. Các tu sĩ Bồ dù sao cũng là người ngoại quốc, nên tai nghe tiếng Việt chỉ chính xác đến mức tương đối.

4. Cuốn Phép Giảng Tám Ngày phản ánh sự giới hạn kiến thức trầm trọng của De Rhodes về văn hoá, triết học, và tôn giáo Đông phương nói chung và Việt Nam nói riêng. Phát biểu một cách bừa bãi (Chương 4, Các Đạo Vạy), sách cũng phản ánh sự coi thường nước chủ nhà của tác giả. Đây là sự hỗn hợp của hai điều đáng tiếc, một là sự khiếm khuyết kiến thức trầm trọng và hai là cung cách phát biểu bất nhã và thô bạo. Nó nguy hiểm cho liên hệ hài hòa giữa Lương với Giáo, và gây ra một hình ảnh bất lợi cho nhà thờ Thiên Chúa giáo, nơi tôi có nhiều thầy cũng như bạn.

Vậy thì ta nên ơn ai hay ơn cái gì? Không phải bỗng dưng trên trời rơi xuống mà ta có được chữ Quốc ngữ. Tôi nghĩ ta phải cảm ơn các giáo sĩ Bồ đã chế tạo cho ta một mẫu tự rút ra từ mẫu tự của họ. Dù họ đi khỏi Việt Nam đã mấy thế kỷ, các nhà làm tự điển Việt Nam vẫn có thể một mình tiếp tục phiên âm những từ cần thiết bằng cách dùng bảng mẫu tự này mà đánh vần. Không có một bảng mẫu tự nào khác trên thế giới có thể đóng góp như vậy cho chúng ta.

Quả thật, cái kỳ diệu của bản mẫu tự là mặc dù đã có hàng chục người Việt Nam làm tự điển, mà kết quả kể như vẫn tương đối nhất quán. Khác nhau chút đỉnh từ người này sang người khác vì cách phát âm địa phương, nhưng tựu trung vẫn là tiếng Việt, không ngô ngọng như mớ từ An Nam Mít của tự điển Rhodes.

Vấn đề còn lại là một ngày nào đó, một viện hàn lâm Việt Nam sẽ xét lại mỗi từ Việt Nam, để hoàn tất toàn bộ chính tả theo một số quy ước chung được mọi người đón nhận trong tinh thần yêu thương dân tộc. Một công cuộc như vậy không phải là không làm được.

Nhu cầu tương lai. Sau cùng tôi có vài ước mong về tiếng Quốc Ngữ. Có lẽ trong tương lai càng gần càng tốt, chương trình giáo dục tại cấp tú tài hay dự bị đại học nên có ít nhất trong các lớp chuyên về nhân văn một số giờ tối thiểu về chữ Nôm đã đành, mà còn về ngôn ngữ và văn hoá Bồ Đào Nha với bản mẫu tự đã là chìa khoá để phiên âm chữ Nôm ra Việt ngữ hiện tại. Các sinh viên trong lãnh vực này tất nhiên chữ Nôm phải thấu đáo, mà tiếng Bồ cũng nên học với độ kỹ tương đương.

Một số giờ tối thiểu cũng nên dành cho các tu sĩ Dòng Tên đã tiên phong trong việc La-tanh hoá chữ Việt như Francisco de Pena, Antonio Barbosa, Gaspar do Amaral, và sau cùng như Alexandre de Rhodes. Với họ, và đặc biệt với tu sĩ De Rhodes, ta cần một cái nhìn mới dưới ánh sáng khoa học thuần túy, thay vì xu hướng thần thánh hoá nặng ý đồ tư lợi của chánh quyền Bảo Hộ trong quá khứ, hay xu hướng khắt khe về sau của một số học giả đồng hương mà lòng căm phẫn chưa nguôi vì những tội ác cũ của thực dân.

Sau cùng, ta cũng không nên quên những người Việt đã cộng tác với các giáo sĩ Bồ trong công trình phiên âm chữ Nôm. Họ là ai, cuộc sống như thế nào, tương quan với các tu sĩ ngoại quốc như thế nào, ta hoàn toàn không biết hay chưa biết thấu đáo. Ta chỉ biết họ phần đông là giáo dân, đúng đắn thấy được giá trị tâm linh của đạo Chúa để gửi đức tin, mặc dù sự cấm đạo không sáng suốt của vua quan ta bấy giờ cũng như sự cẩu thả của những văn bản như Phép Giảng Tám Ngày của De Rhodes.

Cuộc đời của mỗi đồng bào ruột thịt ấy là một cuốn tiểu thuyết về thân phận con người giằng co giữa những thử thách của đức tin, lương tâm, gốc nguồn, xã hội và lịch sử. Còn nữa, là dân bản xứ phục vụ trong cơ sở ngoại nhân, họ bị coi như nhân viên phụ thuộc trong công tác ngữ học của các giáo sĩ. Vậy mà trong mỗi ê-kíp phiên âm Bồ Việt, tôi không ngạc nhiên nếu với từng chữ Nôm được phiên âm, họ hiểu rõ nghĩa hơn, nghe và phát âm chuẩn hơn, so với đối tác ngoại quốc. Vì sự lãng quên của hòan cảnh, tên tuổi họ chưa được truy nguyên rõ ràng và công lao của họ chưa được ghi nhận đúng mức. Đã đến lúc trả cho César cái gì của César, và một Đại học Ngôn Ngữ chân chính phải tìm hiểu cho rõ danh tánh cũng như công lao của những người Việt tiền phong trong công cuộc phiên âm chữ Nôm ra vần La-Tanh.

Tôi có bệnh lạc quan kinh niên và những ước vọng không mệt mỏi cho tương lai Việt ngữ. Tôi thấy trong tương lai gần một trường cao đẳng ngôn ngữ quốc gia được thành lập. Trường có một đội ngũ học giả có khả năng quốc tế, chuyên về những vấn đề liên quan đến tiếng Việt trước cũng như sau Quốc ngữ.

Nhìn trong khuôn khổ hẹp của bài này, cơ sở ấy sẽ đánh giá bằng cái nhìn phi chính trị, phi cảm tính, và nếu cần phi hận thù, phần công lao của các nhà tiền phong Việt cũng như Bồ hay Pháp trong việc La-tanh hoá chữ Nôm...

Nhìn rộng ra thì cơ sở ấy sẽ là điểm phát xuất những trao đổi lưỡng lợi và rộng rãi với các cơ sở quốc tế như Trường Ngôn Ngữ Á Đông của Pháp hay một cơ sở tương đương của Bồ Đào Nha, hay Văn khố Hội Truyền Giáo Paris cũng như Văn Khố Giáo Hội Lisbonne... Những luận án giá trị do sự cố gắng quốc gia hay sự cộng tác quốc tế sẽ ra đời, về những tác phẩm đầu tiên viết bằng Quốc ngữ tại vùng thuộc địa Nam Kỳ hay vùng Bảo Hộ Trung và Bắc Kỳ, về những suy ngẫm đối chiếu hai ngôn ngữ Bồ Việt, từ ngữ vựng tới văn phạm, từ sự giống nhau hay khác nhau của linh hồn hai dân tộc qua tiếng nói, về chuyện lợi lạc của Quốc ngữ trong việc chống nạn mù chữ, hay chuyện thiệt thòi vì bỏ chữ Nôm mà mất liên lạc với văn học Tàu cùng với kho tàng dịch thuật đồ sộ người Tàu đã thực hiện từ cuối nhà Thanh tiếp nối bởi chế độ Dân Quốc cho đến bây giờ... Đó là những bông hoa sẽ nở trong vườn văn học và nhân văn đất nước.

Mai Kim Ngọc
Tháng 5, 2012.


Nhấn Vào Đây Để Tải Tập Tin PDF
THẦN THOẠI RẮN

HUỲNH KIM QUANG

Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn.

Vốn là vùng rừng núi bạt ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng mà là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.

Trong số rắn độc lấy mạng nhiều thổ dân Dravidian nhất là loài mãng xà hung bạo. Chúng không những ở trên mặt đất mà còn ở dưới nước của sông, suối, khe, lạch, ao, mương. Người Dravidian còn cho rằng loài mãng xà có khả năng gọi mưa, thổi gió để trừng phạt con người. Thổ dân sợ loài rắn đó lắm. Họ không biết làm sao để đối phó hay trốn tránh chúng. Họ chỉ biết cầu nguyện. Và rồi họ nghĩ rằng cách hữu hiệu nhất là lập đền thờ rắn để cầu khẩn thần rắn tha mạng cho họ. Thần Nàga xuất hiện từ đó. Nàga không đơn giản là tên gọi một loài rắn bình thường mà còn biểu đạt sức mạnh siêu nhiên của thần linh có khả năng tàn hại hay cứu mạng con người. Huyền thoại Ấn Độ cổ thời cho rằng Thần Brahma rất sủng ái và tin tưởng hoàng tử rắn là Sesha nên giao nhiệm vụ cưu mang và bảo hộ thế giới cho hắn.

Không những thế, huyền sử cổ thời của các dân tộc khác cũng có tục thờ thần rắn, như tại vùng sông Nile của Ai Cập, vùng lưỡng hà của Ba Tư, hay tại lãnh địa của dân tộc Cam Bốt, v.v… Đặc biệt tại Trung Quốc nàga đã hóa thân thành rồng với sắc thái đặc dị và linh thiêng mà các vị vua Trung Quốc đều lấy đó làm biểu tượng cho vương triều của họ. Rồng Trung Quốc về hình thức thì có khác với thần rắn Nàga của Ấn Độ nhưng về đặc tính siêu nhiên và thần thoại thì không khác mấy.

Sử thi Mahabharata (xuất hiện vào thế kỷ thứ 9 trước tây lịch) của Ấn Độ kể chuyện làm sao rắn và diều hâu trở thành kẻ thù truyền kiếp để từ đó xảy ra các cuộc thiêu sống loài rắn. Chuyện kể rằng, ngày xưa vua diều hâu Garuda và rắn Nàga vốn là anh em họ. Nhưng đến đời thánh Kasyapa thì chuyện lục đục giữa hai nhà bắt đầu phát sinh. Lý do là vì ông thánh Kasyapa này có tới 13 bà vợ. Một trong 13 bà vợ đó có 2 bà tên là Kadru và Vinata. Kadru muốn có nhiều con, ngược lại Vinata thì chỉ muốn có ít con nhưng đứa nào cũng phải đầy quyền lực. Rồi thì cuối cùng cả hai bà đều được toại nguyện. Kadru đẻ ra một ngàn con rắn, và Vinata đẻ hai người con mà một người là Surya, thần mặt trời và người con kia là Garuda, con chim diều hâu mang nửa cốt người nửa cốt chim mà thần Vishnu thường cỡi trên lưng bay đi. Trong một cuộc đánh cá mà cổ thi gọi là ngu xuẩn, Vinata bị bắt làm nô lệ cho chị mình là Kadru. Nhưng oái ăm thay, nợ mẹ mà con phải gánh. Do đó, Garuda là con của Vinata đã bị buộc làm theo mệnh lệnh của rắn. Garuda bực tức và đã thề rằng không bao giờ buông tha. Khi Garuda hỏi con rằn làm sao để cứu được mẹ, Vinata bảo Garuda phải mang linh đơn, thần dược bất tử tới. Garuda bèn ăn cắp thần dược từ vị thần và mang tới cho các con rắn để hoàn thành yêu cầu của chúng, nhưng những con rắn đã không thực hiện lời hứa. Từ đó về sau, Garuda xem những con rắn là kẻ thù và bắt để ăn.

Trong cuộc cá độ, để giành phần thắng, Kadru, thủy tổ của rắn, yêu cầu con cháu bà phải tìm mọi cách để cho bà thắng. Nhưng con cháu rắn của bà đã không chịu làm thế, cho nên Kadru nổi giận và thề bắt chúng phải bị chết thiêu trong lễ tế rắn của Vua Janamejaya. Vua Janamejaya sinh ra mang theo mối hận vua cha bị rắn giết nên thề không đội trời chung với loài rắn. Do vậy ông thực hiện lễ thiêu sống rắn gọi là Sarpa Satra. Các cuộc tế lễ thiêu sống rắn được thực hiện bên bờ sông Arind tại Bardan, ngày nay là Parham. Và ngôi đền do Vua Janamejaya xây lên để tế sống rắn ngày nay vẫn còn tại vùng Mainpuri, ở Ấn Độ. Sau đó vị vua rắn Vasuki tỉnh thức trước lời thề và biết rằng những anh em của ông phải cần đến một vị anh hùng để giải cứu. Vasuki bèn đến vị đạo sĩ Jaratkaru với đề nghị kết hôn với nữ thần rắn là Manasa, chính là em gái của Vasuki. Cặp vợ chồng đạo sĩ Jaratkaru và nữ thần rắn Manasa sinh ra người con trai Astika chính là cứu tinh của rắn. Astika đến khuyên can Vua Janamejaya để chấm dứt cuộc tàn sát loài rắn và Vua Janamejaya làm theo.

Khi văn hóa Ấn Độ lan truyền sang vùng Đông Nam Á vào thế kỷ thứ 3 trước tây lịch đi theo đó là làn sóng truyền bá của Bà La Môn Giáo hay Ấn Độ Giáo. Trong số những quốc gia vùng Đông Nam Á hấp thụ nền văn hóa Bà La Môn của Ấn Độ sâu đậm và lâu dài nhất là Cam Bốt.

Rắn Nàga của Ấn Độ khi đến Cam Bốt đã hóa thân thành người. Huyền thoại này kể rằng, người con gái của Vua Rắn Nàga trong một tình cờ đã gặp được chàng thanh niên giòng dõi Bà La Môn của Ấn Độ có tên là Kaundinya. Hai người yêu nhau và lấy nhau, rồi sau đó sinh ra những người con để tạo thành dân tộc Cam Bốt tồn tại cho đến ngày nay. Trong nền văn hóa Cam Bốt, Rắn Nàga được tạc thành tượng 7 đầu để thờ trong các đền thờ như Đền Đế Thiên Đế Thích. Theo văn hóa Cam Bốt, 7 đầu tượng trưng cho 7 màu của cầu vòng. Người Cam Bốt còn giải thích Rắn Nàga có số đầu lẻ tượng trưng cho phái nam với năng lực, vô hạn, vô biên, và bất tử. Rắn Nàga có số đầu chẵn tượng trưng cho nữ giới với thể lực, hữu hạn, tạm bợ và trái đất.

Dân tộc Thái Lan và Lào cũng tôn thờ thần rắn nàga vì họ cho rằng thần rắn nàga là chúa tể cai quản dòng sông Mekong. Hàng năm người dân Thái Lan và Lào đều tổ chức lễ cúng tế thần rắn nàga. Người dân Thái và Lào sống dọc theo sông Mekong tin rằng cúng tế thần rắn nàga sẽ được thần rắn bảo hộ tai qua nạn khỏi lúc làm ăn trên sông, trên nước. Mỗi năm vào ngày 15 tháng 11 theo lịch Lào, một buổi lễ cúng tế thần rắn nàga được tổ chức trọng thể tại quận Phonephisai thuộc tỉnh Nong Khai của Thái Lan với pháp bông rực rỡ vào ban đêm.

Rắn nàga hóa thành người ở Cam Bốt và được tôn làm thần linh ở Ấn Độ, Thái Lan, Lào là huyền thoại đầy bí nhiệm, nhưng vẫn chưa bằng huyền thoại rắn nàga thành Phật trong kinh Phật. Tuy nhiên, trước khi kể chuyện rắn nàga thành Phật, xin kể về chuyện rắn nàga giữ kinh Phật ở thủy cung hay long cung.

Chuyện là thế này, lịch sử Phật Giáo Ấn Độ có một nhân vật mà sau này được tôn xưng là đệ nhị Thích Ca, tức là chỉ đứng sau đức Phật Thích Ca mà thôi. Nhân vật đó là Bồ Tát Nàgarjuna (xuất hiện vào thế kỷ 2 sau tây lịch tại miền nam Ấn Độ) mà các nhà Phật học Trung Quốc dịch là Long Thọ. Bản thân của ngài Long Thọ chứa đầy những huyền thoại ly kỳ mà cho đến nay các nhà sử học cũng không có cách lý giải. Ngài Long Thọ là người truyền bá tư tưởng Phật Giáo Đại Thừa mạnh mẽ và hữu hiệu nhất tại Ấn Độ đặc biệt là hệ thống giáo nghĩa về Bát Nhã Tánh Không. Chuyện kể rằng khi chưa xuất gia đầu Phật, ngài Long Thọ là người bác học tinh thông mọi thứ từ triết lý tư tưởng, tôn giáo đến y học, thuật số và phép tắc thần thông. Ngài đã từng chữa lành bệnh nan y cho nhiều người. Sau khi xuất gia ngài thông suốt khắp các kinh luận của những bộ phái Tiểu Thừa và biện tài vô ngại. Tiếng đồn thấu tới tận long cung của vua rắn Nàga. Vua rắn Nàga mới cho người thỉnh ngài Long Thọ xuống long cung để trao kinh Phật. Nguyên là khi đức Phật còn tại thế đã giao cho vua rắn cất giữ bộ Kinh Bát Nhã ở long cung chờ đến khi có đủ duyên và người xứng đáng để trao lại. Ngài Long Thọ xuống long cung và được vua rắn Nàga dẫn vào thư phòng chứa bộ Kinh Bát Nhã để giới thiệu. Ngài Long Thọ ở lại mấy tháng để đọc bộ Kinh Bát Nhã này và nằm lòng trong bụng. Sau khi trở về nhân gian, ngài Long Thọ chép lại Kinh bằng tiếng Phạn và viết nhiều bộ luận để xiển dương giáo lý Bát Nhã Tánh Không của Đại Thừa. Trong số các bộ luận do ngài Long Thọ sáng tác có nhiều bộ rất phổ biến và còn lưu truyền đến ngày nay như Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, Đại Trí Độ Luận, v.v…

Bây giờ xin kể chuyện con gái của vua rắn nàga thành Phật. Chuyện này được kể trong Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa - Mahayana Saddharma Pundarika Sutra, phẩm Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) thứ 12 theo bản dịch Hán ngữ của ngài Cưu Ma La Thập - Kumàrajìva -- từ bản tiếng Phạn vào năm 406 sau tây lịch tại Trung Quốc. Bộ Kinh này cũng đã được dịch sang tiếng Việt bởi Hòa Thượng Thích Trí Quang và Hòa Thượng Thích Trí Tịnh. Bản dịch sau được phổ biến rộng rãi trong các Chùa Việt. Kinh kể rằng trong Hội Pháp Hoa, Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn Thù (Manjusri) lâu nay ở trong thủy cung của vua rắn đã độ được bao nhiêu con rắn. Bồ Tát Văn Thù nói rằng ngài đã thuyết Kinh Pháp Hoa và độ vô số chúng sinh trong loài rắn. Khi ngài Văn Thù nói như vậy thì có vô số bồ tát từ dưới biển vọt lên và đến núi Linh Thứu nơi đức Phật đang nói Kinh Pháp Hoa. Bồ Tát Trí Tích hỏi lại Bồ Tát Văn Thù rằng Kinh Pháp Hoa là vua trong các Kinh nội dung cao sâu vi diệu không phải ai cũng có căn cơ đủ để tu hành mà thành Phật mau được. Ngài Văn Thù liền kể rằng có người con gái của vua rắn ở long cung mới có 8 tuổi mà "căn tính lanh lẹ, có trí tuệ, khéo biết các căn tính hành nghiệp của chúng sinh, được pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thụ trì, sâu vào thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát na phát tâm Bồ Đề được bậc bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sinh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhân đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến bồ đề."

Khi ngài Văn Thù kể đến đó thì Bồ Tát Trí Tích không tin, vì ông phát biểu cảm nghĩ rằng đức Phật Thích Ca cũng đã trải qua vô lượng vô số kiếp tu hành khổ hạnh thì mới thành Phật được, lẽ nào một con rắn con mới có 8 tuổi lại có thể mau thành Phật như thế. Trong lúc Bồ Tát Trí Tích còn đang giải thích suy nghĩ của mình cho ngài Văn Thù nghe thì con gái của vua rắn hiện ra trước pháp hội đến đảnh lễ đức Phật và đứng qua một bên. Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất là đệ tử có trí tuệ đệ nhất của đức Phật Thích Ca còn nghi ngờ chuyện con gái vua rắn thành Phật nên hỏi người con gái của vua rắn rằng, việc đó có đúng như vậy chăng. Con gái vua rắn không nói gì mà đem hột minh châu đắt giá tặng cho đức Phật Thích Ca. Đức Phật tức thì hoan hỷ nhận hạt minh châu của cô bé con vua rắn. Cô bé rắn quay qua ngài Xá Lợi Phất và Trí Tích Bồ Tát hỏi rằng việc cô tặng hạt minh châu và Phật nhận có mau không? Cả hai vị đều nói là rất mau. Cô bé rắn giải thích với 2 vị này rằng việc cô thành Phật còn mau hơn nhiều. Và rồi cô bé con vua rắn tức thì biến thành thân con trai và bay qua cõi nước Vô Cấu ở phương nam, ngồi lên tòa sen và thành Phật với ba mươi hai tướng tốt không khác gì các đức Phật. Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá Lợi Phất chỉ còn biết im lặng và tin là thật mà không nói được lời nào.

Truyền thuyết về con rồng cháu tiên của dân tộc Việt có phải cũng từ huyền thoại rắn nàga mà ra và người Việt Nam phải chăng cũng là con cháu của nhà rắn thần linh này? Dẫu sao thì dòng dõi Lạc Hồng cũng hơn các dân tộc khác ở chỗ có một nửa cốt cách là tiên.

Huỳnh Kim Quang

Ý kiến bạn đọc
30/04/201318:31:48
Khách
Hoan Hô bác Mai Kim Ngọc, bài sưu khảo hay quá!!!
Lúc trước, khi còn học ở Cal State Fullerton, tình cờ phát hiện một số tài liệu cho rằng Petrus Trương Vĩnh Ký là giàn điệp cho chính quyền bào hộ Pháp thời thực dân. Rất tiếc là lúc đó đã không phổ biến hay lưu dử lại các nguồn đó. Bác có thể vén màn bí mật đó được không???

Cám ơn Bác.

Trần Sơn
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tác giả tên thật David Huỳnh, cư dân Los Angeles, là một "chức sắc" của Hội Đi Câu tại Hoa Kỳ, từng nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012 với loạt bài kể chuyện đi câu đủ nơi, đủ loại, từ cá sấu gar Houston tới cá tầm California, câu tới Alaska, sang Mễ, qua tận Thái Lan, và nay thì câu về đến quê cũ.
Trương Ngọc Anh (hình bên) đã nhận giải bán kết Viết Về Nước Mỹ 2002. Bài và hình ảnh được thực hiện theo lời kêu gọi của chương trình Foodbank tại Quận Cam: "Nếu biết ai đó cần sự giúp đỡ, xin vui lòng hướng dẫn vào chương trình trợ giúp của chúng tôi."
Nếu viết về con rồng, thật dễ có văn chương bay bướm, kiến thức bao trùm thiên hạ, ai đọc cũng phục lăn. Vì sao? Vì con rồng chẳng hề có trên thế gian, chẳng ai thấy, nên cứ viết tào lao thiên địa, không ai bắt bẻ được. Giống như chuyện ma. Có hàng triệu chuyện ma mà chẳng ai thấy ma bao giờ.
Alice Springs? Gớm! Cái phố nhỏ như mắt muỗi, có đốt đuốc cháy mười ngày cũng chẳng nom thấy đâu trên bản đồ nước Úc.
"Hơn bốn mươi năm sau khi xuất hiện, Dương Nghiễm Mậu vẫn còn là nhà văn avant-garde đối với văn học Việt Nam bởi những suy tưởng và cách đặt vấn đề của ông vẫn còn nguyên những mấu chốt bí mật, nhiều truyện ngắn với lối cấu trúc rất lạ, chưa ra khỏi vòng trăn trở tìm tòi của người viết hôm nay." (Thụy Khuê viết về Dương Nghiễm Mậu, Con Người Nội Soi)
Nếu bạn có một người yêu, yêu rất yêu, bạn có muốn nói về người ấy không, có muốn giới thiệu người ấy cho cả “thế giới” biết không. Tôi chắc chắn bạn sẽ “lật đật” nói rằng có. Không cần hỏi, tôi đã thấy cả triệu người trên mặt đất này đã và đang làm việc đó.
Tác giả tên thật Vũ Văn Cẩm; Vượt biển năm 1981. Đến Mỹ 1982, hiện là cư dân Oklahoma từ 2003. Nghề Nghiệp: Electrical Engineer. tại Công Ty American Airlines, M&E Center, Tulsa, OK. Bài viết -trích từ Việt Báo Tết QWuý Tỵ - là một chuyện tình đẹp.
Tác giả là một luật gia và nhà hoạt động văn hoá xã hội của miền Nam trước 1975. Ông sinh năm 1934, tại Nam Định. Tốt nghiệp Đại học Luật khoa Saigon 1958. Du học tu nghiệp tại Mỹ 1961-62. Nghề nghiệp tại Saigon: Chuyên gia luật pháp tại Quốc hôi VNCH (1958-62),
Anne Khánh Vân, sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp, hiện sống và làm việc tại miền Đông Hoa Kỳ. Năm 2007, cô nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ với tự truyện “Duyên Nợ Với Nước Mỹ.” Mới đây, Khánh Vân đã hoàn tất việc đón ba má, và vợ chồng người em trai sang đoàn tụ. Bài tết năm nay của cô là chuyện vui.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.