Hôm nay,  

Những vị quốc mẫu lộng hành phép nước trong sử Việt -- Thái hậu Lê Thị đời nhà Lý & Vương phi Đặng Thị Huệ đời Lê-Trịnh

26/03/202310:29:00(Xem: 2169)
Truyện sử

thai hau bw

Thuở xưa, theo lệ thường, những cô gái được tuyển vào cung bao giờ cũng phải được các vị nữ quan hoặc các viên thái giám dạy dỗ qua một hai khóa về lễ nghi để biết phép tắc cư xử trong cung, để ôn lại bổn phận người đàn bà, v.v... Một phụ nữ từ dân giả được tuyển vào cung, dần leo lên tới địa vị quốc mẫu lẽ nào lại không trải qua những khóa giáo dục đó? Khi đã được giáo dục mà không chịu theo phép tắc, hành động vượt lễ nghi đến nỗi gây tai tiếng trong dân gian thì khó ai chấp nhận được. Những động lực thúc đẩy mấy người “đàn bà yếu đuối” ấy dám đạp đổ cả lễ nghi của triều đình thường là tình yêu, tình dục, lòng tham... Liệt kê những phụ nữ này vào hạng “lộng hành phép nước” chắc hẳn không oan!

 

Thái hậu Lê Thị đời nhà Lý:

 

Vua Lý Thần Tông mất sớm (1138), con trưởng là Lý Thiên Tộ mới 3 tuổi lên kế vị tức Lý Anh Tông. Mẹ vua là Lê Thị được tôn phong hoàng thái hậu. Vua còn quá nhỏ nên Lê thái hậu phải luôn ở cạnh vua để giúp vua quyết định các việc.

 

Hai năm sau, Lê thái hậu trao chức Cung điện lệnh tri nội ngoại sự cho Đỗ Anh Vũ. Anh Vũ là em Đỗ thái hậu, mẹ vua Thần Tông, nhạc mẫu của Lê thái hậu. Từ 8 tuổi Anh Vũ đã được tuyển vào đội ca múa trong vườn của vua. Năm 16 tuổi Anh Vũ được vua cho vào hầu hạ nơi màn trướng. Vốn được trời phú một dung mạo đẹp đẽ, đẫy đà, múa khéo hát hay, Anh Vũ rất được vua yêu chuộng. Lê thái hậu cũng sẵn có cảm tình với Anh Vũ nên đã trao cho ông ta chức vụ trên. Từ đó, Đỗ Anh Vũ được tham gia ý kiến sắp xếp công việc trong triều. Gần gũi không bao lâu thì Lê thái hậu phải lòng Anh Vũ. Năm sau Đỗ Anh Vũ được thăng chức thái úy. Thế là mọi việc lớn nhỏ trong triều đều do một tay Đỗ Anh Vũ giải quyết.

 

Khi đã trở thành vị đại thần có quyền hành nhất trong triều, Đỗ Anh Vũ ngày càng trở nên kiêu ngạo, càn rỡ. Ngay giữa triều Anh Vũ vẫn nghênh ngang khoát tay, lừ mắt để ra hiệu lệnh sai bảo các quan. Y lại luôn để ý từng ly từng tí lỗi lầm của các quan để chỉ trích, khiển phạt. Các quan đều sợ quyền thế của y, chỉ còn biết ngầm than thở với nhau.

 

Không thể chịu nổi sự hống hách của Đỗ Anh Vũ, một nhóm quan lại đã cấu kết với nhau âm mưu diệt trừ y. Khởi đầu nhóm đã liên kết được: Điện tiền đô chỉ huy sứ Vũ Đái, Hỏa đầu đô Quảng Vũ là Lương Thượng Cá, Hỏa đầu đô Ngọc Giai là Đồng Lợi, Nội thị Đỗ Ất cùng đám tôn thất Trí Minh Vương, Bảo Ninh hầu, Phò mã lang Dương Tự Minh.

 

Mấy ngày sau họ đã bí mật gặp nhau ở nhà Bảo Ninh hầu. Sau khi chào mừng mọi người, Bảo Ninh hầu nói:

 

– Tên gian thần Đỗ Anh Vũ ngày càng lăng loàn không ai chịu được. Hôm nay chúng ta gặp nhau ở đây cũng chính là để lo vụ đó. Có phải chúng ta sẽ cùng nhau soạn một tờ sớ hạch tội Đỗ Anh Vũ rồi cùng ký tên để dâng lên vua không?

 

Nội thị Đỗ Ất lắc đầu nói:

 

–  Trước đây đã có nhiều vị dâng sớ vạch tội y nhưng đều bị Lê thái hậu dìm hết. Thái hậu lại còn trao các sớ vạch tội ấy cho Anh Vũ xem nữa. Vì vậy các vị vạch tội y đã lần lượt bị Anh Vũ làm hại sạch. Tôi nghĩ chúng ta phải làm cách gì khác chứ việc dâng sớ thì chắc khó kết quả mà rất nguy hiểm.

 

Điện tiền đô chỉ huy sứ Vũ Đái nói:

 

– Việc dâng sớ hạch tội quả thật rất khó kết quả. Ký sớ mà dâng lên nào khác chuyện đem thịt nộp cho cọp? Vua tức là Lê thái hậu mà Lê thái hậu tức là Đỗ Anh Vũ, đó là nỗi khổ của bọn ta. Chúng ta phải tìm cách nào ly gián được ba người ấy tách khỏi nhau mới hi vọng thành việc. Mong quí vị suy nghĩ xem có mưu kế nào có thể làm được không?

 

Hỏa đầu đô Tả Hưng Thánh là Nguyễn Dương nói:

 

– Dâng sớ thì không thể tới vua. Quyết định tối hậu thì không thể qua Lê thái hậu. Như vậy thì bao giờ chúng ta mới diệt trừ được tên gian thần ấy? Mà không diệt được y thì y lại tỉa lần chúng ta hết. Bất nhập hổ huyệt an đắc hổ tử, ta phải làm bạo mới xong. Phải nhân lúc bất ngờ đưa quân đến cửa Việt Thành áp lực khiến vua hạ chiếu bắt Anh Vũ mới được. Ngoài cách này không còn cách nào khác.

 

Mọi người đều tán thành ý kiến đó.

 

Thế rồi họ đem quân đến vây ngoài cửa Việt Thành, Vũ Đái hô lớn cho vua nghe:

 

– Anh Vũ ra vào cấm đình làm nhiều điều ô uế, tiếng xấu đồn ra ngoài, không tội gì to bằng. Bọn thần xin trừ đi để khỏi mối lo về sau.

 

Vua Anh Tông sợ hãi, bèn hạ chiếu sai cấm quân đến bắt Đỗ Anh Vũ trói giam ở hành lang Tả Hưng Thánh, giao cho Đình úy tra xét. Lê thái hậu thấy Anh Vũ bị bắt giam không dám công khai can thiệp. Bà sai người cứ đúng bữa mang cơm đến cho Anh Vũ dùng. Hôm sau Anh Vũ cậy một người lính ngục đến thưa với quan Điền tiền Vũ Đái xin cho y được gặp mặt để bày tỏ một việc. Vũ Đái liền nạt:

 

– Bày tỏ cái gì nữa? Cứ ở đó đợi Đình úy tra xét.

 

– Bẩm, ông ta có gởi cho tướng quân một phong thư, tiểu tốt xin dâng ngài.

 

Tên lính lấy phong thư ra dâng Vũ Đái. Đọc thư xong Vũ Đái bảo:

 

– Ngươi về bảo y cứ đợi đấy.

 

Hôm sau Vũ Đái cùng Lương Thượng Cá, Nguyễn Dương đến kiểm tra chỗ giam Anh Vũ. Thấy Anh Vũ được giam riêng ở một phòng khá sạch sẽ, không bị gông xiềng trói buộc gì cả, Nguyễn Dương nói với viên quản ngục:

 

 

– Ở tù mà thoải mái vậy sao? Anh phải xiềng nó lại và cho canh giữ thật kỹ. Nó mà thoát được thì anh mang họa đấy.

 

Vũ Đái nói:

 

– Nó chưa có án mà. Dù sao trước đây nó cũng là một vị quan của triều đình. Ta cũng nên châm chước cho nó một tí.

 

Thấy Vũ Đái tỏ vẻ nhẹ tay với Anh Vũ, Nguyễn Dương cũng hơi bực mình. Khi Nguyễn Dương trở về nhà thì gặp một tên lính ngục cũng vừa đến. Dương hỏi:

 

– Ngươi đến đây có việc gì?

 

– Bẩm, ông Anh Vũ nhờ tiểu tốt dâng quan một phong thư.

 

– Về đi. Không thư từ gì hết.

 

Thấy tên lính ngần ngại chưa chịu đi, Nguyễn Dương nạt:

 

– Ta bảo về đi, ngươi nghe không?

 

Tên lính dùng dằng giây lát lại thưa:

 

– Bẩm, ông ấy cậy con mang cho quan một chút quà để quan uống trà...

 

Tên lính vừa nói vừa lo le cái hộp nhỏ ra. Nguyễn Dương nổi giận quát:

 

– Anh Vũ ở trong ngục làm gì có thứ ấy? Ngươi là lính ngục mà dám đến nhà tội nhân lấy của hối lộ hả? Vàng bạc ấy ở đâu ra thế? Dám lấy vàng bạc để mua chuộc ta hả? Người đâu! Hãy bắt giữ tên này cho ta!

 

Tên lính hoảng sợ vội sụp xuống lạy:

 

– Xin quan lớn tha thứ. Tiểu tốt đâu dám đến nhà tội nhân. Số vàng bạc tội nhân có được là do người mang cơm để trong giỏ cơm đưa vào.

 

Nguyễn Dương nghe tên lính ngục nói vậy mặt giận hầm hầm kêu lên:

 

– Thế này thì chết hết cả đám rồi! Hèn gì mà từ quan đến lính mặt nào mặt nấy đều tỏ vẻ độ lượng với thằng tù ấy. Ta phải trở lại ngục ngay để tự giải quyết chuyện này mới xong.

 

Khi trở lại nhà ngục Nguyễn Dương gặp nhiều bạn đồng liêu cũng đang ở đó. Ông nói lớn:

 

– Nếu các ông tham của đút, tôi với các ông tất không thoát khỏi tay Anh Vũ đâu! Chi bằng cứ giết nó trước đi cho khỏi tai họa về sau.

 

Nguyễn Dương cầm cây giáo xăm xăm định vào giết Anh Vũ. Đô Tả Hưng là Đàm Dĩ Mông vội ôm Dương, giật lấy cây giáo, ngăn rằng:

 

– Điện tiền bảo Anh Vũ đáng tội chết, nhưng phải đợi mệnh lệnh của vua, không nên tự tiện.

 

Nguyễn Dương không thực hiện được ý định nổi giận chửi:

 

– Điện tiền Vũ Cứt chứ không phải Vũ Đái! Sao lại tham của đút mà không tiếc mạng mình? Rồi các ông sẽ được chứng kiến cảnh Anh Vũ nó trả thù như thế nào.

 

Nói xong tự biết mình không khỏi chết, Nguyễn Dương nhảy xuống một cái giếng tự tử.

 

*

 

Khi vua xét án vụ án trên, nhờ có Lê thái hậu che chở, Anh Vũ không bị giết mà chỉ bị đày làm Cảo điền nhi tức phu làm ruộng cho nhà nước. Thái hậu vẫn lo buồn, lại cố nghĩ cách để cứu Anh Vũ. Bà bày kế mở những hội lớn để giảm án cho tội nhân. Sau mấy lần giảm án, Anh Vũ được tha. Không bao lâu sau Anh Vũ lại được phục hồi chức Thái úy phụ chính như trước.

Trở lại nắm quyền hành, Anh Vũ chuẩn bị cuộc trả thù rất chu đáo. Sợ khi sai quan quân đi bắt bớ phần nhiều không được như ý, Anh Vũ dâng hơn một trăm thủ hạ để làm đô Phụng quốc vệ. Người nào phạm tội đều giao cho đô Phụng quốc vệ đi bắt.

 

Tháng 10 năm 1140, Anh Vũ mật tâu với vua:

 

– Trước kia bọn Vũ Đái tự tiện đem cấm quân xông vào cung đình, tội ấy không gì to bằng. Nếu không sớm trừng trị, sợ một ngày kia sẽ sinh biến, hậu quả không thể lường được.

 

Vua chẳng biết gì cả nên chuẩn tâu. Thế là Anh Vũ sai đô Phụng quốc vệ đi bắt bọn Vũ Đái giam vào ngục để trị tội. Vua lại hạ chiếu giáng Trí Minh Vương xuống tước hầu, Bảo Ninh hầu xuống tước minh tự, Bảo Thắng hầu xuống tước phụng chức. Bọn Nội thị Đỗ Ất gồm 5 người bị xử “thượng mộc mã”, tức là bị đóng đinh lên tấm ván, đưa đi bêu chợ rồi đem ra pháp trường tùng xẻo. Bọn Hỏa đầu đô Ngọc Giai là Đồng Lợi gồm 8 người bị đem chém ở chợ Tây Giai. Bọn Điện tiền đô chỉ huy sứ Vũ Đái gồm 20 người bị chém bêu đầu ở các bến sông. Bọn Phò mã lang Dương Tự Minh gồm 30 người bị tội đày đi vùng độc địa xa xôi. Những người dự mưu khác đều bị đồ làm điền hoành, khao giáp (làm lao dịch trong quân đội).

 

Hạ thủ xong đám người thù cũ, Đỗ Anh Vũ càng tha hồ thao túng triều đình. Biết mình không được lòng người, để đề phòng một vụ Vũ Đái thứ hai, Anh Vũ xúi vua hạ chiếu:

 

Cấm các quan không được tự tiện vào trong cung, ai phạm phải sẽ bị xử tử. Người canh giữ không cẩn thận để người khác vào trong cung cũng bị tội như thế.

 

Cấm các quan trong triều không được đi lại nhà các vương hầu. Ở trong cung cấm không được hội họp nhau năm ba người để bàn luận, chê bai, ai phạm bị trị tội. Kẻ nào phạm việc qua lại bên ngoài phía đầu hành lang chứa khí giới của đô Phụng quốc vệ bị xử 80 trượng, tội đồ. Nếu vào trong hành lang ấy sẽ bị xử tử. Lính Phụng quốc vệ ở trong hành lang ấy có chiếu chỉ mới được cầm khí giới, không có chiếu chỉ mà tự tiện mang khí giới đi quá xa ra ngoài phía đầu hành lang cũng bị xử tử.

 

Tháng 3 năm 1158, quan Tả ty Nguyễn Quốc Dĩ đi sứ nước Tống về tâu với vua:

 

– Thần sang nước Tống thấy ở giữa sân vua có đặt cái hòm bằng đồng để nhận các chương tấu của bốn phương, thần xin bắt chước mà làm như thế để bề trên rõ được tình người dưới.

 

Vua chuẩn y, cho đặt cái hòm giữa sân để ai muốn trình bày việc gì thì bỏ thư vào hòm ấy. Bấy giờ có người bỏ thư nặc danh nói Anh Vũ làm loạn. Tìm xét không biết tác giả bức thư là ai, Anh Vũ bèn vu cho Nguyễn Quốc Dĩ làm, đày Quốc Dĩ lên trại Qui Hóa. Không bao lâu vua hối hận gọi Quốc Dĩ về. Anh Vũ sợ vua tha Quốc Dĩ sẽ bất lợi cho mình bèn đưa cho Quốc Dĩ một hũ rượu có thuốc độc. Quốc Dĩ tự biết không khỏi bị hại, bèn uống rượu độc chết.

 

Cũng may cho triều đình nhà Lý, chỉ nửa năm sau vụ đó Anh Vũ lâm bệnh mà mất. Cái chết của Anh Vũ đã làm cho Lê thái hậu mất hết mọi sinh thú. Có lẽ bà dần nhận biết mình đã giúp Anh Vũ gây tội lỗi với triều đình quá nhiều, lại xấu hổ chuyện mình đã vướng vào một mối tình bất chính, bà đã âm thầm rút vào bóng tối. Từ đó không thấy sử sách nhắc nhở thêm gì về bà nữa.

 

*

 

Vương phi Đặng Thị Huệ đời Lê-Trịnh

 

Đặng Thị Huệ người làng Phù Đổng, con gái của một ông đồ nghèo. Mẹ mất sớm, mới lên mười Thị Huệ đã phải đi hái chè mướn để giúp đỡ gia đình. Mới 15 tuổi Thị Huệ đã lộ dần một tấm nhan sắc hơn người. Vốn tính thông minh, ưa học hỏi, tìm hiểu, lại nhờ cha hôm sớm dạy bảo, Thị Huệ cũng thu thập được ít nhiều kiến thức về cuộc đời. Điều làm Thị Huệ lo âu nhất là nàng có một đứa em trai tên Mậu Lân tánh tình rất hung dữ, ngỗ ngược. Càng lớn Mậu Lân càng ham chơi, hoang đàng chẳng chịu học hành, cũng chẳng chịu tập tành làm ăn. Gia đình ông đồ rất khốn đốn vì đứa con bất trị này.

 

Bấy giờ là đời Lê Hiển Tông, chúa Trịnh Sâm đang cầm quyền chính. Khi còn là thế tử, chúa đã ăn nằm với một cung tần tên Dương Ngọc Hoan. Cung tần này đã sinh cho thế tử một con trai đặt tên Trịnh Tông (1763). Nhưng vì không yêu Dương Ngọc Hoan nên thế tử vẫn để trống ngôi vợ cả. Sau này, khi đã lên ngôi chúa (1767), chúa vẫn chẳng quan tâm gì tới mẹ con Ngọc Hoan. Mấy năm sau chúa mê đắm Trần Thị Vịnh, phong bà này làm tiệp dư. Bà tiệp dư này mắc chứng ít ham muốn tình dục, sống với chúa gần hai năm mà chẳng con cái gì nên bà cũng chẳng hi vọng gì ở ngôi chính phi. Hơn nữa, chúa là người đàn ông cuồng yêu mà lại chỉ chuyên yêu một mình bà nên bà cũng hơi ngán. Nhân một lần về thăm quê, tình cờ Thị Vịnh gặp được cô hái chè Đặng Thị Huệ. Thấy Thị Huệ xinh đẹp hơn người, bà tiệp dư dụ nàng về cung để hầu hạ bà. Vốn đã ngán ngẩm cuộc sống vất vả thiếu hụt triền miên, Thị Huệ vẫn mong gặp được một cơ hội đổi đời. Nay nghe bà tiệp dư ngọt ngào khuyên nhủ, nàng đồng ý ngay. Cha nàng không bằng lòng nhưng thấy con cương quyết quá ông đành buông xuôi. Dĩ nhiên là từ đó cuộc sống của gia đình ông cũng khá hơn.

 

Vốn thông minh sẵn, chỉ ở với bà tiệp dư một thời gian ngắn, Thị Huệ đã hiểu nhiều về các lễ nghi khuôn phép trong cung.

 

Sẵn có dụng ý, một hôm, bà tiệp dư sai Thị Huệ mang dâng chúa một khay hoa đẹp. Vừa thấy mặt người dâng hoa chúa đã sững sờ nhìn không chớp mắt. Thế là chúa cho giữ Thị Huệ ở lại phủ luôn. Tiệp dư Thị Vịnh thấy vậy cũng hài lòng vì bà vừa đỡ chịu gánh nặng vừa có ơn với cả chúa lẫn Thị Huệ. Chúa đã ở chung với Thị Huệ một nhà như kiểu vợ chồng dân giả. Xe cộ, áo quần, của Thị Huệ đều được phép sắm sửa sang trọng không kém gì của chúa cả. Thị Huệ nói gì chúa cũng nghe, khi quyết định việc gì chúa cũng hỏi ý nàng. Càng được chúa cưng chiều Thị Huệ càng lộng hành. Hễ có chuyện không vừa ý là Thị Huệ làm mày làm mặt ngay khiến chúa nhiều phen phải xuống nước dỗ dành.

 

Nguyên chúa có một viên ngọc dạ quang vẫn xâu ở trên đầu khăn làm đồ trang sức. Một lần Thị Huệ cầm lấy viên ngọc ấy mân mê, chúa nói:

 

– Nhẹ tay một chút kẻo nó xây xát mất.

 

Thị Huệ nổi giận ném viên ngọc xuống đất khóc:

 

– Làm gì với hạt ngọc này! Bất quá vào Quảng Nam kiếm hạt khác giả chúa là cùng. Sao chúa nỡ trọng của khinh người đến thế?

 

Rồi nàng tự ý bỏ ra ở cung khác. Chúa phải một phen vất vả dỗ dành nàng mới chịu làm lành trở lại. Khi Thị Huệ có thai, chúa sai người đi lễ khắp trăm thần để cầu con thánh. Sau đó Thị Huệ sinh được một con trai (1777), chúa thích ý quá, lấy ngay tên thuở nhỏ của chính mình mà đặt tên cho con: Trịnh Cán. Trịnh Cán càng lớn lại càng tỏ ra thông minh dĩnh ngộ nên chúa càng yêu quí. Thấy chúa quá lạnh nhạt với mẹ con thái phi Dương Ngọc Hoan, Thị Huệ lại nẩy sinh tư tưởng giành ngôi thế tử cho con mình. Từ đó Thị Huệ cố mua chuộc cảm tình của một số quan lại trong triều để làm hậu thuẫn. Mặt khác, bà cố tìm các tì vết của mẹ con cung tần Ngọc Hoan rồi thủ thỉ lại với chúa.

 

Trước đây chúa vốn có người em cùng cha khác mẹ là Trịnh Lệ đã mưu cướp ngôi chúa nhưng không thành. Mẹ của Trịnh Lệ họ Dương, quê ở làng Long Phúc, huyện Thạch Hà lại là chị của cung tần Dương Ngọc Hoan. Đó là nguyên nhân đã khiến chúa ghét bỏ mẹ con Ngọc Hoan. Theo lệ cũ, đáng lẽ khi vương tử Trịnh Tông lên 12 tuổi thì phải cho ra ở Đông cung. Nhưng khi các quan nhắc với chúa việc ấy, chúa đã không cho mà bắt vương tử phải ra ở nhà riêng của quan a bảo Nguyễn Đĩnh. Như vậy là ngôi đông cung vẫn bỏ trống. Khi Trịnh Cán lên bốn thì Trịnh Tông đã mười tám. Đa số các quan theo phép xưa, đều có vẻ nghiêng về Trịnh Tông. Thị Huệ biết vậy nên hết sức lo lắng. Cuối cùng bà quyết định phải mua chuộc cho được một viên quan có danh vọng nhất đương thời để làm nơi nương dựa: Huy quận công Hoàng Đình Bảo (gọi tắt là Quận Huy). Quận Huy nguyên là một danh tướng văn võ toàn tài. Chúa Trịnh Doanh (thân phụ chúa Trịnh Sâm) thương mến nên đã gả quận chúa Ngọc Vi cho Quận Huy. Lúc bấy giờ Quận Huy đang được cử làm trấn thủ Nghệ An. Sau đó vì những người ghen ghét bịa chuyện đồn đại Quận Huy có ý làm phản nên chúa cũng sinh lòng nghi ngờ. Thế là chúa bàn với hai viên quan thân tín là Nguyễn Khản và Nguyễn Đĩnh tìm cách loại trừ Quận Huy. Không ngờ chuyện bí mật này lại lọt vào tai Đặng Thị Huệ. Nhân dịp quận chúa Ngọc Vi, vợ của Đình Bảo về cung thăm thánh mẫu (mẹ chúa Trịnh Sâm), Thị Huệ đã tiết lộ việc này với bà. Quận chúa nghe sợ quá vội trở về Nghệ An báo cho chồng hay. Quận Huy biết chuyện cũng sợ hãi, liền nghĩ mưu để tự cứu. Sau cùng ông nghĩ chỉ có cách rời bỏ binh quyền mới hi vọng thoát được lòng nghi kỵ của chúa. Quả nhiên, khi ông dâng thư xin trở về triều chúa chấp thuận ngay. Là người suy nghĩ chín chắn, ông biết lòng người hầu hết đang hướng về Trịnh Tông. Thị Huệ tuy được chúa yêu nhưng Trịnh Cán còn nhỏ quá, thiếu hậu thuẫn, khó làm nên việc. Chắc nhất là phải tìm được sự che chở của Trịnh Tông may ra được an toàn trong lúc này. Thế rồi Quận Huy cho đem vàng bạc đút lót cho các tay chân của Trịnh Tông để lấy lòng. Sau đó Quận Huy lại đem 100 lạng vàng và 10 tấm lụa Nam Kinh để làm lễ xin ra mắt Trịnh Tông. Nhưng Trịnh Tông sai trả đồ lễ lại và không tiếp. Vương tử lại nói với các thuộc hạ:

 

– Thằng giặc ấy sao không ở trấn làm phản mà lại vội về triều? Rồi đây ta sẽ tịch thu hết cả gia sản nhà nó, cần gì đồ lễ của nó bây giờ!

 

Quận Huy biết Trịnh Tông không dung mình bèn quyết ý phò Trịnh Cán. Ông đem ngôi nhà cũ của Hoàng Ngũ Phúc cho Trịnh Cán làm dinh thự. Từ đó trước mặt chúa Thị Huệ luôn luôn nói tốt cho Quận Huy. Thế là chúa không còn nghi ngờ Quận Huy nữa mà còn tín nhiệm đưa Quận Huy vào chính phủ (phủ chúa). Quận Huy được mở dinh Trung Nhuệ, coi việc trong phủ và kiêm lãnh chức trấn thủ Sơn Nam. Từ đó Quận Huy và Thị Huệ trong ngoài liên kết với nhau, thế lực nghiêng cả thiên hạ.

 

Từ khi Trịnh Cán ra đời, Trịnh Tông lúc nào cũng lo lắng không yên. Ông cứ sợ ngôi chúa sẽ lọt về tay Trịnh Cán. Vì thế, ông luôn thúc giục các thuộc hạ như Thế Thọ, Thẩm Thọ, Đàm Xuân Thụ, Vĩnh Vũ tìm mưu kế để ngăn chận chuyện ấy.

 

Rồi bất ngờ chúa lâm bệnh, tình trạng ngày càng nguy kịch. Một hôm Trịnh Tông ngủ mơ thấy mình mặc áo chầu chàm, đội mũ chữ đinh, đứng ở phủ đường. Sáng dậy ông hoảng hốt nói với các thuộc hạ:

 

– Ta mơ như vậy chắc là điềm có tang rồi. Nay mai chắc trong cung sẽ có biến. Ta phải sớm lo liệu trước mới được.

 

Bọn thuộc hạ liền khuyên Trịnh Tông ngầm chiêu mộ dũng sĩ, sắm sửa binh khí sẵn. Nếu trong cung xảy việc chẳng lành thì cứ việc đóng chặt cổng thành, giết Quận Huy, bắt giữ mẹ con Thị Huệ là xong. Mặt khác lại thông báo với Nguyễn Khản, trấn thủ Sơn Tây và Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc đưa quân hai trấn về ép các quan phù lập Trịnh Tông lên làm chúa. Trịnh Tông nghe lời, lo chuẩn bị sẵn mọi việc để chờ thực hiện mưu kế đã định. Không ngờ có tên Nguyễn Huy Bá phát giác được việc đó bèn báo với Thị Huệ. Nhằm lúc ấy chúa cũng vừa khỏi bệnh. Chúa giận quá định sai người đi trị tội tức khắc nhưng Quận Huy can:

 

– Vương tử Tông quả có lỗi nhưng vương tử dám làm chuyện to lớn như vậy là do hai viên trấn thủ Sơn Tây và Kinh Bắc chủ mưu. Nay hai viên ấy còn cầm quyền chỉ huy ở ngoài, nếu vội vã trừng trị vương tử e sẽ có biến khác. Chẳng bằng trước hết triệu hai viên ấy về triều bắt giam trước rồi tuyên bố tội trạng để trừng trị một thể.

 

Chúa nghe lời làm theo ý Quận Huy. Kết quả nhiều quan chức thuộc phe cánh Trịnh Tông kẻ phải uống thuốc độc, người bị xử tử. Trong số đó bị xử oan ức cũng không ít. Riêng vương tử Trịnh Tông bị giáng làm con út. Thánh mẫu thấy Trịnh Tông đã trưởng thành trong khi Trịnh Cán còn quá nhỏ, lại bệnh hoạn èo uột đâm lo lắng nói với chúa:

 

– Với ta thì Tông hay Cán cũng là cháu cả. Ta mong chúa hãy nghĩ đến tôn miếu xã tắc, tạm dành ngôi đông cung lại đó, may ra Tông nó hối hận thì tốt, còn không, đợi Cán khôn lớn hãy lập trưởng cũng được.

 

Chúa đáp:

 

– Tông với Cán đối với mẹ là cháu chưa bằng đối với tôi là con. Biết con chẳng ai bằng cha. Nếu không sớm định người truyền ngôi bọn tiểu nhân sẽ sinh dòm ngó. Nếu bệnh Cán không khỏi, thà lập Quể quận công Trịnh Bồng, trả lại ngôi cho dòng chính chứ không thể giao cho thằng con bất hiếu để nó làm hỏng cơ nghiệp của tổ tiên.

 

Để tuyệt lòng người hướng về Trịnh Tông, chúa chính thức lập Trịnh Cán làm thế tử. Vì bất bình với vụ phế Tông lập Cán này, trong dân chúng lại lan truyền câu ca dao:

 

Đục cùn phải giữ lấy tông,

Đục long, cán gẫy còn mong nỗi gì?

 

Từ đó phe cánh của Thị Huệ càng ngày càng mạnh.

 

Nguyên Thị Huệ có một người em trai tên Đặng Mậu Lân bản tánh rất hung bạo. Từ khi Thị Huệ được chúa mê đắm, Mậu Lân dựa thế chị, lập bè lập đảng ngang ngược giết người, cướp đất, hiếp dâm bất cứ phụ nữ nào hắn muốn, coi phép nước không ra gì cả. Ai cũng sợ hắn  như sợ cọp. Vì sợ oai Thị Huệ, quan quân cũng chẳng ai dám ra tay trừng trị. Thị Huệ lại còn xin chúa gả quận chúa Ngọc Lan cho hắn. Ngọc Lan là con gái thứ hai của chúa, thanh cảnh, yếu đuối, chúa rất yêu chiều. Các quan hàng công thần, quí tộc nhiều người đã tới cầu hôn nhưng chúa chưa hứa gả cho ai. Nay Thị Huệ cầu hôn cho em trai, chúa sợ mất lòng, bất đắc dĩ phải gượng nhận lời.

 

Chúa hứa gả con nhưng rất áy náy vì biết Ngọc Lan yếu đuối, mảnh khảnh khó mà chịu nổi một tên đàn ông cường bạo như thế. Khi đưa quận chúa về nhà Mậu Lân, lấy cớ quận chúa chưa lên đậu lên sởi, chưa cho phép Mậu Lân được gần gũi. Ngoài việc sai viên quan a bảo cùng nhiều thị tì theo hầu quận chúa, chúa còn sai Sử Trung hầu theo để làm giám chế.

 

Lần nào muốn đến với quận chúa Mậu Lân cũng bị Sử Trung ngăn cản. Một lần hắn nổi khùng lên nói với Sử Trung:

 

– Chúa bảo con gái chúa là tiên dưới trần, nhưng ta coi ra, thật không bằng con bé xách giày nhà ta, quí hóa gì. Ta chẳng ham gì nhan sắc của nó, nhưng tốn kém hết bao nhiêu tiền mới lấy được một con vợ. Nếu không ra hồn thì cũng phải vần cho nó một trận cho nẫu nhừ ra bùn để đền đắp lại phí tổn rồi sẽ tống cổ nó đi. Còn mày nếu muốn sống hãy tìm nẻo mà cút. Nếu không, đừng trách ta không báo trước.

 

– Đó là mật chỉ của chúa thượng, không phải tôi dám làm như vậy.

 

– Mày thử hỏi chúa, nếu chúa ở vào địa vị tao chúa có nhịn được không?

 

– Quan lớn không nên quá lời như vậy. Nhà chúa không thể so sánh với người thường.

 

– À, mày đem chúa để dọa tao hả? Chúa là cái quái gì?

 

Dứt lời, Mậu Lân tuốt gươm chém Sử Trung chết tại chỗ. Hắn lại truyền đóng chặt cửa dinh không cho ai ra vào, định ngầm thủ tiêu cái thây Sử Trung.

 

Quận chúa biết chuyện sợ quá, sai một thị tì lén chui qua một lổ hổng chạy về phủ chúa báo tin. Chúa nổi giận sai quan hầu dẫn một toán quân đến bắt Mậu Lân. Hắn cầm gươm lăm lăm đứng trước cửa dinh dọa:

 

– Đứa nào muốn chết cứ tới đây!

 

Chúa phải sai Quận Huy đi bắt Mậu Lân. Thấy em mình khó thoát tội chết, Tuyên Phi khóc lóc lạy lục chúa xin cho mình được chết thế. Bất đắc dĩ, chúa chỉ đày Mậu Lân đi châu xa.

 

Năm 1782 chúa lâm bệnh nặng, một mình Thị Huệ luôn ở cạnh săn sóc cho chúa. Khi bệnh đã đến hồi kịch liệt, Thị Huệ nói với chúa:

 

– Thiếp thờ chúa thượng, nhờ ơn được chúa quá thương yêu thành ra nhiều kẻ thù ghét. Không biết rồi đây mẹ con thiếp sẽ gởi thân vào đâu?

 

Chúa an ủi:

 

– Thế tử đã được lên ngôi đông cung, nước là nước của nó. Rồi đây khanh sẽ làm mẹ cả thiên hạ, còn ai thay đổi được?

 

– Sợ không dự định trước, đến lúc tình thế khẩn cấp người khác có thể cướp mất.

 

Lúc ấy cũng có Quận Huy ở đó, chúa nói với Quận Huy:

 

– Sau này ngươi cần hết sức giúp đỡ chính cung và thế tử cho ta yên lòng.

 

Quận Huy thưa:

 

– Tôi đâu dám chẳng hết lòng vì chuyện này. Nhưng lúc này chúa còn tỉnh táo, xin hãy kịp thời truyền mệnh lệnh cho thế tử Cán nối ngôi và lập chính cung làm vương phi cùng coi việc nưởc để cho có mệnh lệnh sẵn sàng.

 

– Phải đấy! Khanh cần làm phụ chính cho vương tử.

 

Quận Huy xin chúa triệu thêm 6 vị trọng thần có uy tín cùng nhận cố mệnh của chúa để cùng nhau gánh vác việc triều chính. Chúa bằng lòng. Quan thiêm sai Nhữ Công Điền được cử soạn thảo sắc phong Thị Huệ làm Tuyên phi. Chúa gởi gắm con côi Trịnh Cán cho 7 vị đại thần xong thì qua đời, thọ 44 tuổi. Quận Huy một mặt cắt đặt các quan lo việc tang lễ, một mặt sai Thùy Trung hầu sao lấy mấy bản thư cố mệnh và từ sách phong Tuyên phi đưa ra chính phủ để dâng lên vua Lê.

 

Ngay hôm đó, vua Lê hạ sắc dụ lập thế tử Trịnh Cán làm Điện Đô Vương.

 

Trịnh Cán giữ ngôi chúa đương nhiên Tuyên phi trở thành người chủ cán trong phủ. Trong 7 viên đại thần chịu cố mệnh Tuyên phi lại tín nhiệm Quận Huy hơn ai hết. Mọi việc Tuyên phi thường chỉ bàn với Quận Huy rồi quyết định. Dần dần việc này gây nên mối nghi ngờ trong thiên hạ. Người ta hay tụm năm tụm ba trạo vấn đề như chúa còn nhỏ lại hay ốm đau e trong cung sắp có biến. Hoặc Tuyên phi sắp dâng cơ nghiệp họ Trịnh cho Quận Huy... Những câu ca dao khích động lòng người cũng được lan truyền như:

 

Sáu quan cố mệnh ngẩn ngơ,

Để cho Huy Quận vào rờ chính cung.

 

Hoặc,

 

Ba quân có mắt như mờ,

Để cho Huy Quận vào rờ chính cung.

 

Quận Huy nghe chuyện như vậy liền sai quan đề lĩnh quân vụ dùng biện pháp mạnh để trị những kẻ phao tin nhảm làm dân chúng càng xôn xao. Nhóm tay chân cũ của Trịnh Tông thấy lòng dân hoang mang như vậy đã không bỏ lỡ cơ hội, xúi giục Trịnh Tông âm mưu đảo chánh. Trịnh Tông sai một bộ thuộc tên Dự Vũ làm một bữa cơm rượu mời bọn biện lại trong đám thân quân đến đánh chén rồi nói:

 

– Vương tử Tông vốn chẳng có tội gì nhưng bị mụ đàn bà họ Đặng ác nghiệt mê hoặc tiên chúa vu tội hãm hại để cướp ngôi. Quận Huy có lòng phản nghịch lại hùa với mụ gây ra việc bỏ người này lập người kia để hắn làm phụ chính cho tiện việc cướp nước. Nay tân chúa bị bệnh nặng, sự nguy biến chỉ trong sớm tối. Không biết rồi đây cơ nghiệp nhà chúa sẽ do ai làm chủ? Ba quân đều là người ở đất “thang mộc” (Thanh, Nghệ), ai cũng sẵn lòng trung nghĩa. Nếu anh em còn nghĩ tới cái ơn của nhà chúa nuôi nấng trong hai trăm năm, hãy một lòng giúp đỡ nhà chúa.

 

Bọn biện lại đồng loạt nói:

 

– Chúng tôi vẫn sẵn có bụng ấy nhưng còn ngại vương tử không chịu. Nay đã là ý của vương tử thì việc đó đâu khó gì.

 

Thế rồi họ ngầm đi báo cho nhau hẹn họp nhau ở chùa Khán Sơn để bàn chuyện. Mọi người đều đồng lòng nhưng chưa biết khởi sự như thế nào cho ổn. Viên biện lại Bằng Vũ tình nguyện sẽ nhân lúc cúng cơm sáng cho chúa, y sẽ đánh một hồi trống trong phủ làm hiệu rồi tất cả ập vào giết Quận Huy. Ý kiến của Bằng Vũ rất được chúng quân hoan nghênh. Viên thiêm tri binh phiên Trần Hữu Cầu lại soạn một tờ hịch “Ba quân phù chính” đem dán khắp nơi. Cuối cùng họ đã thực hiện ý kiến của Bằng Vũ. Kết quả là Quận Huy bị giết trước sân phủ chúa.

 

Giết Quận Huy xong quân sĩ reo hò kéo đến nhà Tả Xuyên rước vương tử Trịnh Tông phò lên phủ đường rồi tôn lên ngôi chúa, lấy hiệu là Đoan Nam Vương. Thế là cung tần họ Dương, mẹ Trịnh Tông trở thành thái phi.

 

Sau cuộc lễ mừng tân chúa các quan mới đem đạo sắc của vua Lê và tờ chỉ của thánh mẫu dụ ba quân về việc phò lập chúa tới dán ở các cửa. Những tờ ấy đều là tạm thời thảo ra nhưng được gọi là những mệnh lệnh định sẵn.

 

Khi biết cuộc biến loạn xảy ra, Tuyên phi khiếp quá, bèn thay áo quần núp ở hậu cung. Các gia thần của chúa Cán đều chạy trốn tứ tán. Quận Diễm Trần Xuân Huy cũng bồng chúa Cán lánh vào một nơi. Đến tối thánh mẫu mới cho người đi tìm Tuyên phi và chúa Cán về cung cho thay quần áo và ăn uống. Chúa Cán vì quá sợ hãi không ăn uống gì được nên bệnh càng nặng. Đoan Nam Vương bèn treo giải thưởng ai chữa khỏi cho chúa Cán sẽ được thưởng 100 lạng vàng và phong tước hầu. Thế nhưng chẳng có ai nhận chữa cả.

 

Sau đó chúa Cán bị giáng làm Cung quốc công. Chẳng bao lâu Cung quốc công Cán mất. Bọn quân sĩ sau khi giết Quận Huy để lập Đoan Nam Vương xong thì ỷ công luông tuồng hống hách không coi ai ra gì cả. Chúng phá nát dinh thự của Quận Huy xong lại phá nát nhà các vị quan mà chúng thù ghét. Ai ngăn trở hành động của chúng đều bị giết hết. Bất kể quan dân gì hễ thấy chúng đều phải lo lánh mặt. Ngay cả các vị quan xử án cũng phải xử theo ý chúng, nếu không nghe thì tánh mạng hay nhà cửa quan án cũng tiêu vong. Dân chúng ở trong vùng chúng đóng cũng bị chúng nhũng nhiễu ức hiếp mọi bề. Đoan Nam Vương đành bất lực trước tình trạng ấy. Người đương thời gọi cuộc loạn này là “loạn kiêu binh”.

 

Khi chúa Cán đã bị truất, Dương thái phi sai bắt Thị Huệ đến trước mặt mình mắng nhiếc, kể tội, buộc Thị Huệ phải quì lạy nhận lỗi. Thị Huệ đã nhất định không chịu. Thái phi bèn sai hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Thị Huệ rập đầu xuống đất. Nhưng Thị Huệ vẫn không chịu lạy và cũng chẳng mở miệng kêu một lời. Dương thái phi giận quá, nhổ nước miếng vào mặt, vào đầu Thị Huệ, đánh đập rất tàn nhẫn. Hành hạ xong bà cho nhốt Thị Huệ vào nhà Hộ tăng ở vườn sau. Ở đây Thị Huệ vẫn bị tiếp tục hành hạ cực kỳ khổ sở. Không chịu nổi, Thị Huệ đã lén trốn một lần nhưng không lọt. Từ đó càng bị giam giữ kỹ hơn.

 

Năm sau, trong nhà thờ ở lăng Thịnh Vương xảy ra một hiện tượng lạ. Người giữ lăng báo liền báo sự thể về cung. Dương thái phi liền mời một bà đồng vào hỏi ý. Bà đồng nói việc này hẳn do Tiên vương có điều gì đó không vừa ý. Nếu không sớm lo, còn có nhiều việc xấu sẽ xảy ra. Chúa và thái phi đâm ra lo sợ, bèn sai dâng lễ tạ tội và cho Thị Huệ phục hồi chức cung tần, đưa ra ở lăng Tiên vương để sớm tối lo việc khói hương.

 

Đến ngày giỗ Đại tường, triều đình đã sắp xếp sẵn vị trí nhất định cho những người sẽ cúng lạy Tiên vương tùy địa vị của họ. Thị Huệ được sắp chỗ quì ở chiếu dành cho các cung tần. Nhưng tới gần giờ cúng vẫn chưa thấy Thị Huệ ra chiếu. Bất ngờ Thị Huệ xuất hiện nhưng không vào chiếu cung tần mà lại bước hẳn vào chiếu chính phi mà quì làm các quan lo việc lễ nghi lúng túng không biết làm sao. Vị trưởng lễ đến giải thích và mời Thị Huệ về chiếu cung tần nhưng bà không chịu nghe. Hai cung nhân được lệnh vào dìu Thị Huệ đi nhưng bà đã đổ gục xuống, miệng ói máu ra chiếu. Thì ra Thị Huệ đã uống thuốc độc để chết theo chúa.

 

Lúc bấy giờ Nguyễn Hữu Chỉnh đã theo Tây Sơn, nghe được tin này Chỉnh khen:

 

– Chết được lắm! Trước đây ta vẫn tưởng Tuyên phi chỉ có nhan sắc, không ngờ bà ta cũng còn là một người có khí tiết!

 

(Muốn theo dõi chuyện này để rõ hơn xin đọc cuốn tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái và cuốn lịch sử ký sự Bà Chúa Chè của Nguyễn Triệu Luật).

 

Ngô Viết Trọng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hương đẹp lắm! Một vẻ đẹp đài các sang trọng của một Giai nhân xứ Huế. Dáng người dong dỏng cao, thanh thoát, nước da trắng hồng, mái tóc óng mượt buông lơi xõa sau bờ vai tròn. Đặc biệt chị có đôi mắt đẹp và yên bình như mặt nước hồ thu...
Bao năm qua, đã đến sống trong làng chài từ lâu lắm, đã làm bạn kéo lưới qua nhiều chủ ghe, chủ tàu cá, Tư Dầm vẫn nghèo, vẫn túng, không hề sắm nổi cho mình chiếc ghe câu để tự kiếm sống qua ngày.
Trại Sikiew, đêm văn nghệ mừng Năm Mới diễn ra trên Bãi Đá năm ấy có vài giọng ca gây bất ngờ. Đầu tiên phải kể đến Vân Đại Bàng với bài hát Đường Xưa Lối Cũ hay thần sầu, bà con vỗ tay rần rần...
Từ mấy hôm nay Thi nôn nóng chờ đợi ngày về quê thăm nhà. Nàng cứ loay hoay tính toán mãi không biết phải mua quà gì về cho mấy đứa em. Con gái đi học xa nhà, thật sung sướng và hạnh phúc biết bao mỗi khi có dịp nghỉ lễ dài để trở về sống với gia đình thân yêu...
Tôi dần dà để ý đến một cặp vợ chồng Á Châu. Không hiểu tại sao, tôi đoan chắc họ là vợ chồng, chứ không thể là tình nhân, hay hàng xóm. Họ đến mua hàng hầu như mỗi ngày ở siêu thị tôi đang làm việc...
Hai bài thơ của Trần Hạ Vi...
Cuối đời Đông Hán nước Tàu, tại quận Cự Lộc có nhà cự phú họ Trương sinh được ba anh em là Trương Giốc, Trương Bảo, Trương Lương. Khi ông bà Trương mất thì Bảo và Lương hãy còn nhỏ, Trương Giốc thay quyền cha mẹ nuôi dạy hai em...
Tuy Hòa, nơi tôi ở cách nay gần bẩy chục năm, là một thành phố nhỏ hiền hòa nằm sát bờ biển, giống như nàng “Mỹ Nhân Ngư” phơi tấm thân kiều diễm trên bãi cát trắng tinh. Nàng dựa đầu trên núi Chóp Chài, đôi mắt mơ màng nhìn ra biển Đông, nghe gió thổi vi vu qua những bãi thùy dương dày đặc trên bãi biển Đại Lãnh, đầu đội vương miện hình Tháp...
Chắc bạn đọc nghĩ là tôi đang ở Hà Nội, hay Sài Gòn. Không. Chúng tôi đang du lịch châu Âu. Chuyến nghỉ hè năm nay, cùng với đôi bạn từ Quận Cam, tưởng đã không thành vì Delta Airlines huỷ chuyến bay vào giờ chót, sau khi đã có thẻ lên tầu. Lên mạng tìm vé khác và bên Turkish Airlines còn chỗ để đưa chúng tôi đến Barcelona, Tây Ban Nha là thành phố đầu tiên của chuyến du lịch...
Buổi sáng bến xe Tây Ninh đông đúc và ồn ào. Tiếng rao hàng của đám bán hàng rong vang lên inh ỏi, từ bán bánh mì, bán nước trà đá, nước ngọt bỏ bao, đến bọn người bán sách báo dạo, cứ gặp ai cũng chìa hàng đến trước mặt, giọng mời gọi...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.