Hôm nay,  

Ngôi cổ miếu (Kỳ II)

04/03/202310:21:00(Xem: 3259)
Truyện

reeducationcamps


(Tiếp theo kỳ trước)

 

Nhưng đến khi chiến cuộc miền Nam trở nên sôi động thì hai bên mất hẳn liên lạc. Vào năm 1975, sau ngày đất nước thống nhất, ông Đ. hành đạo ở xứ đạo Phước Tỉnh, một xã đánh cá rất giàu có ở Bà Rịa. Khi tiếp xúc với các cán bộ cách mạng, ông Đ. vẫn đánh tiếng thăm hỏi người bạn cũ. Thế rồi một hôm, ông nhận được danh thiếp của viên bí thư huyện ủy năm nào báo tin sẽ đến thăm. Ôi, xiết bao mừng rỡ vì người bạn cố tri trong chính quyền cách mạng biết rõ công lao của ông còn đó! Từ nay, ông sẽ ưỡn ngực mà đi, không e dè như những bạn đồng đạo khác. Viên bí thư này bấy giờ đã là một uỷ viên trong thành ủy lâm thời ở thành phố Hồ Chí Minh. Một cuộc hội ngộ rất cảm động giữa hai người đã diễn ra tại tư thất của ông Đ. Ông ủy viên thành ủy không quên nhắc lại những công lao ông Đ. đã giúp đỡ cách mạng trong thời gian ông làm việc tại Sông Bé. Ông Đ. cũng khiêm tốn cho rằng giúp cách mạng là nghĩa vụ của toàn dân thôi. Thông cảm nỗi khốn khó của những người hi sinh làm cách mạng, ông Đ. cố ép tặng vị ủy viên thành ủy thành phố Hồ Chí Minh một ít tiền lộ phí. Nể tình, vị ủy viên thành ủy phải nhận cho ông Đ. vui lòng. Trước khi chia tay, ông ủy viên thành ủy cho ông Đ. địa chỉ ở thành phố Hồ Chí Minh và hẹn hễ cần gì, ông Đ. có thể về gặp ông ta bất cứ lúc nào. Giáo dân địa phương nhiều người chứng kiến cảnh đó đều nể phục vị lãnh đạo của mình đã sáng suốt, có tinh thần hoà giải cao, biết đi trước thời cuộc.

 

Trước 1975, Phước Tỉnh vốn là một xã đánh cá rất giàu có, mức sống của người dân xã này rất cao. Những đứa trẻ con chịu khó đợi lúc tàu thuyền đánh cá về ra giúp ngư dân những việc vặt vãnh là có thể lấy được hàng mớ cá về dùng. Nếu lười hơn, chỉ cần đi lượm cá rơi rớt cũng kiếm ra tiền. Dân nhậu chỉ cần xuống bãi khi tàu về, không cần bỏ tiền ra cũng kiếm được món nhậu ngon. Dân chài Phước Tỉnh làm ra cá quá dễ dàng, họ chỉ coi quí thịt heo, thịt bò và rau lang. Đất cát nơi đây khó trồng trọt được thứ gì ngoài rau lang. Người ta chỉ cần rau để nuôi heo, không cần lấy củ. Thỉnh thoảng, cũng có người ăn rau lang thay các loại rau cỏ khác. Rau lang đắt như vàng, ai có được một khoảnh đất mà siêng trồng tưới rau lang là có thể sống thoải mái. Về nhà cửa, từ xa nhìn vào, nơi nào cũng thấy tường xây mái ngói trông rất đẹp mắt. Nhưng đến gần thì chẳng mấy ai thích vì cả không gian đều sặc sụa mùi cá. Đi vào bên trong và sân sau những ngôi nhà đẹp đẽ ấy, người ta càng thấy cảnh ngược lại, những lưới cá, dụng cụ bắt cá, chứa cá treo bừa bộn ngổn ngang không đẹp mắt tí nào. Đó là hình ảnh về xã Phước Tỉnh mà ông Đ. mô tả sơ qua...

 

Sau một thời gian ngắn hân hoan đón chào cách mạng giải phóng, cơn sốt vượt biên của người dân phát khởi. Xã Phước Tỉnh lại thành địa điểm lý tưởng cho những cuộc hẹn hò ra đi. Dân xã Phước Tỉnh rất giàu, có nhiều tàu thuyền tốt, ra biển lại tiện, nên những người ôm mộng giang hồ lũ lượt kéo về nơi này chờ đợi thời cơ. Nhờ cha xứ có công với cách mạng nên cán bộ địa phương nể nang, ít chú ý đến hoạt động của giáo dân. Nhiều người ở xa về, trước khi ra quân, để tránh tai mắt chính quyền dòm ngó, họ thường tạm trú tại nhà thờ. Nhà thờ đã cưu mang đùm bọc rất nhiều lớp người ra đi. Vì vậy, khi biết chắc đi được, phần đông người vượt biên thường tặng lại ông Đ. những tiền của họ mang theo trong mình. Nhưng đời có kẻ xấu người tốt, dần dần việc cũng tiết lộ. Đùng một cái, cả hai vị cha xứ xã Phước Tỉnh là Trần (hay Nguyễn, tôi không nhớ rõ) Văn Hương và Nguyễn Trinh Đ. đều bị công an mời làm việc. Ông Đ. bình tĩnh bày tỏ những công lao mình giúp đỡ cách mạng trong thời gian làm việc ở Sông Bé với cán bộ hỏi cung. Ông nêu tên vị đương kim ủy viên thành ủy thành phố Hồ Chí Minh làm chứng cớ, hi vọng được nể tình mà bỏ qua. Nhưng cán bộ cách mạng “chí công vô tư” chỉ xét vấn đề hiện tại. Sau cùng, ông Đ. chẳng được ưu tiên gì hơn ông Hương, cả hai ông đều bị tạm giữ. Người nhà ông Đ. liền tìm tới địa chỉ người cán bộ cách mạng đã được ông Đ. cứu sống ngày xưa để nhờ ông này giúp đỡ. Nhưng người làm cách mạng đâu có thể vì ơn riêng mà can thiệp vào phép công? Vị ủy viên thành phố chỉ biết gởi lời chia buồn. Người nhà ông Đ. vất vả đi lại nhiều lần nhưng cứ bị ông ủy viên kia tránh mặt. Cuối cùng, ông Đ. bị đưa vào khám đường Bà Rịa. Ông Đ. vốn là một người yêu thể thao, thời trẻ, ông từng là một tay đánh bóng chuyền có hạng với những cú đập độc đáo nổi tiếng một thời. Thế mà cái thân hình to cao ấy, chỉ qua một thời gian bị giam cầm không được thăm nuôi, đã biến thành một hình nộm lọng khọng thảm thương như thế này.

 

Đó là câu chuyện “Bọn vong ân bội nghĩa!” của ông Đ. Có lẽ thời gian ở một mình trong ngôi cổ miếu, ông tụng niệm câu này nhiều lắm. Lúc này, khổ nhất là chuyện nước dùng. Chỉ một gô nước mỗi ngày, tôi phải lo giữ để uống, không dám xài cẩu thả. Ngay cả súc miệng cũng chỉ dám ngụm một hai búng nhỏ. Buổi sáng, tôi cũng không còn đánh răng vì không có kem. Cái bàn chải đã quá cùn, tôi chỉ giữ để dùng những khi quá cần thiết hoặc khi kiếm được một ít muối. Thấm một chút nước vào khăn để lau mặt lau cổ cũng phải chừng mực. Vì vậy, chỉ mấy ngày sau, tôi đã thấy nhiều chỗ ngứa ngứa trên người. Nhưng tôi vẫn cố làm ngơ không dám gãi, quá lắm chỉ đưa tay xoa nhẹ. Tôi chỉ cào gãi đâu trong giấc ngủ không tự kiềm chế mình được. Tôi thèm khát đến cả vài giọt nước mưa phùn bắn vào người khi trời mưa qua các lỗ dột, thèm khát một cách lạ lùng. Ở tù đã nhiều ngày, nhiều nơi, nhưng tôi chưa bao giờ gặp cảnh thèm nước đến thế. Thèm chán lại tự an ủi: năm bảy ngày nữa, thế nào người ta cũng cho đi tắm. Nhưng đến khi được cho đi cầu lần thứ hai, nghĩa là đã trên mười ngày mà vẫn chưa thấy ai cho tắm rửa gì. Tôi hỏi ông Đ.:

 

– Ở đây, mấy ngày họ cho tắm một lần?

 

Ông Đ. nhìn tôi cười như chế giễu:

 

– Có lẽ hai ba năm chi đó cho tắm một lần, tôi ở đây hơn ba tháng rồi mà có tắm rửa lần nào đâu!

 

– Ông nói thật à?

 

– Sao lại không thật? Cái bọn vong ơn bội nghĩa ấy muốn thế mà! Không thăm nuôi, không tắm rửa, không có cầu tiêu, đó là đặc điểm của phòng này!

 

Nghe ông Đ. nói thế, tôi lo sợ lắm. Tôi đã từng chết hụt vì bệnh ghẻ một lần, bây giờ gặp tình trạng này, nếu bệnh ghẻ tái phát thì thật nguy khốn. Trên người tôi đã có nhiều dấu hiệu nảy sinh của bệnh ghẻ. Nhiều nốt đỏ đã hiện ra khắp chân tay tôi. Nó ngứa ngứa nhưng tôi vẫn cố nín nhịn, không dám cào gãi. Tôi phải cố gắng mọi cách để giới hạn sự nhiễm trùng. Tôi biết phòng này chẳng vệ sinh tí nào, những móng tay tôi làm sao sạch được! May lúc đó còn là mùa mưa, trong phòng lại chỉ có hai người nên tôi ít đổ mồ hôi, cũng đỡ. Tôi không hi vọng thoát bệnh ghẻ tái phát mà chỉ mong cầm chân nó được lúc nào hay lúc đó thôi.

 

Mấy hôm sau thì đến kỳ khám đường cho thăm nuôi. Trong khi bên ngoài rộn rịp gọi tên người này người khác, trong ngôi cổ miếu, chúng tôi chỉ biết nằm chèo queo. Bất ngờ, vào buổi sáng hôm sau, khi tôi vừa thức dậy thì ông Đ. trao cho tôi hai trái chuối và một cái bánh ú gạo nếp:

 

– Ông Kha gởi biếu ông đấy. Phần tôi, tôi dùng rồi.

 

Anh Kha lúc ấy ở phòng A4 cùng với ông linh mục Hương. Có lẽ anh được thăm nuôi chiều hôm trước. Nếu anh ấy gởi quà cho tôi, cũng phải đợi đến giờ đưa cơm, nhờ tù nhà bếp chuyển với sự cho phép của cán bộ trại, chứ làm cách nào mà chuyển sang sớm thế được? Tôi thắc mắc:

 

– Ông Kha gởi đến lúc nào và bằng cách nào thế ông?

 

Ông Đ. cười:

 

– Khoảng lúc mười một giờ đêm.

 

Tôi trố mắt nhìn ông Đ., ông lại cười hãnh diện:

 

– Ông tưởng tôi đùa à? Tối nay, cũng khoảng giờ đó, ông ấy sẽ gởi thịt cho nữa đấy!

 

Tôi tức cười hỏi lại:

 

– Gởi nhờ cán bộ trực đêm đưa à?

 

Ông Đ. vui vẻ nói:

 

– Gởi nhờ ai, ông muốn biết thì đêm nay ráng thức đợi tới giờ đó sẽ rõ.

 

Thật ra, tôi cũng muốn biết sự việc hư thật thế nào. Nhưng tới buổi tối, tôi ngồi được một chốc thì thấy mỏi, phải nằm xuống rồi ngủ quên lúc nào không hay. Đang nằm mơ màng thì ông Đ. vỗ vai tôi:

 

– Dậy ăn thịt gà!

 

Tôi mở mắt hỏi:

 

– Cái gì? Thịt gà lấy về rồi à?

 

– Ông đợi một tí xem tôi lấy về!

 

Tôi đang ngơ ngác thì thấy ông Đ. ra ám hiệu và nói chuyện qua vách. Một lát sau, ông bước ra leo lên tấm bửng cửa sắt. Tôi cũng bước ra, đứng dưới chân cửa chăm chú theo dõi. Bấy giờ, tôi mới thấy nể sự lanh lẹ của một ông già sáu mươi. Đôi chân cao và đôi tay dài của ông lúc này thật hữu dụng. Ông đã dang hai chân tựa thật vững trên cái đà cửa và đưa cả hai tay ra khỏi dãy song sắt ngắn bên trên tấm cửa bửng, một tay vỗ vào vách ba cái. Trong bóng tối tôi thấy một cái gì loáng thoáng bay qua trước mặt ông và ông giơ tay đón bắt. Thịt gà đó sao? Nếu bắt không được, nó sẽ rớt xuống thềm hành lang thì lộ chuyện mất. Nhưng không, điều tôi tưởng không đúng. Đó chỉ là đầu cối của một sợi dây chắp đôi có thể căng thành một vòng tròn. Một người nào đó đã nắm một đầu bên kia và ném đầu cối cho ông Đ. Bắt được đầu cối của sợi dây xong, ông Đ. dùng hai tay thoăn thoắt lần cho cục cối chạy vòng sang bên kia một cách nhanh nhẹn. Chỉ một chốc sau, tôi thấy một gói đồ buộc trên dây chạy lần tới tay ông Đ. Ông ngừng tay lại để tháo gói đồ ra rồi buông sợi dây cho người bên kia rút về. Ông Đ. vói tay đưa gói thịt gà xuống trước cho tôi cầm rồi leo xuống. Ông cười nói:

 

– Sáng mai hãy ăn chứ không lẽ bây giờ tối thui, ăn như chuột, coi sao được?

 

Dù rất thèm thuồng, tôi cũng đồng ý tạm để gói thịt sáng hôm sau sẽ thanh toán. Tôi không rõ ý nghĩ của ông Đ. như thế nào khi đưa ra đề nghị đó. Riêng tôi, ý nghĩ tôi không được trong sáng cho lắm. Thế gian vẫn có câu “Miếng ăn là miếng tồi tàn, Hơn thua một chút lộn gan lên đầu”. Tôi không muốn để cho ông Đ. gán tôi vào hạng đó. Tôi vẫn còn bực mình vì mới đây tôi đã bị ông Đ. nghi lầm. Số là anh tù nhà bếp khi chia đồ ăn, vẫn dùng cái thau của ông Đ. để đựng phần ăn cho cả hai chúng tôi. Sau đó, ông Đ. lấy đưa cho tôi một nửa. Phần của ông, ông để trong thau ấy để ăn luôn. Việc đó tôi không có gì thắc mắc. Ngặt một điều là ông Đ. hay ho quá. Khi ho, ông Đ. lại có thói quen không che miệng hay quay đi chỗ khác. Nhiều lần ông ho luôn vào thức ăn làm tôi đâm ra rất khó nuốt. Sau mấy lần như thế, hễ tù nhà bếp vừa đặt thau xuống là tôi nhặt ngay phần của mình liền, cái nào trên tôi lấy chứ không hề có ý lựa to nhỏ. Không ngờ mấy hôm sau, ông Đ. nói:

 

– Khi nào ông cũng lựa cái to trước như thế cũng tội cho tôi chứ!

 

Khi nghe ông nói thế, tôi nghẹn họng. Từ đó, tôi có định kiến: ở trong tù, bất cứ cái gì cũng phải chia chác cẩn thận chứ không thể coi thường. Tôi bực mình nhưng vẫn tự hào là lòng mình thật sự trong sáng. Ông Đ. cũng cho tôi biết, lâu nay cả ba vị linh mục đều có lệnh cấm thăm nuôi tuyệt đối. May các ông còn được những người tù nhà bếp, phần nhiều là con chiên, giúp đỡ chút ít. Mỗi lần nhận được quà, dù chỉ một táng đường hay vài cái kẹo, những con người da bọc xương ấy vẫn san sẻ cho nhau qua cách chuyền giây đó. Thật là những hành động tương thân tương ái vừa cao cả vừa dũng cảm hiếm thấy. Dũng cảm thật đấy, vì đối với cái trại này, nếu việc làm đó bị lộ, chắc chắn án mạng sẽ xảy ra ngay. Cán bộ khám đường Bà Rịa đánh chết tù nhân là chuyện quá thường.

 

Hôm sau, khi chia gói thịt của anh Kha cho, ông Đ. có vẻ cởi mở khác thường. Ông vừa tươi cười nói chuyện vừa chia phần cho tôi trội hơn. Tôi áy náy gắp trả bớt cho ông nhưng ông không nhận:

 

– Ông cứ ăn đi! Ông trông cũng cần bồi dưỡng lắm đó.

 

Nghe ông nói thế, tôi rất cảm động. Tôi chợt nghĩ: hoá ra cái chuyện tôi mếch lòng ông trong những lần chia chác trước có thể là do tôi hiểu lầm. Và cả lúc này nữa, tôi đã tưởng hôm nay ông ta vui vì được tặng quà. Tôi cảm thấy tự thẹn cho mình lắm.

 

Trong lúc tôi đang lựa vài lời để bày tỏ nỗi áy náy theo sự suy nghĩ của mình thì nghe ông Đ. nói tiếp:

 

– Ông Kha được thăm nuôi thì chắc ông cũng được thăm nuôi. Gia đình ông ở xa quá đến đây thăm cũng khó lắm. Hay là tôi bảo người nhà tôi mượn tên ông để thăm nuôi nhé. Thăm được cái gì anh em mình sẽ cùng hưởng với nhau.

 

Tôi chỉ cười cười, không từ chối mà cũng không nói đồng ý. Tôi vốn nhát gan, ưng cũng ưng nhưng lại sợ. Bây giờ thì tôi hiểu rõ vì sao sáng nay ông Đ. có vẻ cởi mở với tôi. Có lẽ ông Đ. nghĩ tôi đã bằng lòng nên tiếp luôn:

 

– Thế là hai tuần tới nữa, anh em mình đỡ đói nhé!

 

Thời gian thoăn thoắt, ngày thăm nuôi kế tiếp lại đến. Khoảng chín giờ sáng thì mấy anh tù trật tự đã rộn rịp mang đồ thăm nuôi đưa đến các phòng. Bỗng có tiếng bước chân dừng ngay ở phòng chúng tôi rồi có tiếng mở khóa lách cách. Tôi và ông Đ. hồi hộp nhìn nhau. Quả thật tên tôi được gọi. Chúng tôi nhìn thấy anh tù nhà bếp đang xách hai xách tay rất nặng. Đó là anh Cẩn, cựu thiếu úy Cộng Hoà, là một người thân tín của ông Đ. Viên cán bộ mở cửa hỏi:

 

– Ai thăm biết không?

 

Tôi nói tới cả chục tên người, thân nhân của tôi lẫn thân nhân của ông Đ. do ông nhắc, nhưng vẫn trật hết. Tôi đang bối rối thì may thay, ngoài kia xảy ra vụ gì đó, viên cán bộ bước ra bên ngoài trong giây lát. Anh Cẩn lợi dụng dịp này khẽ nói: “Mai Hoàng Bích”. Khi viên công an trở lại, tôi vờ trả lời năm ba tên khác rồi mới nói tới tên Mai Hoàng Bích. Thế là chúng tôi nhận được quà.

 

Viên cán bộ đóng cửa xong là chúng tôi quay lại mấy xách quà. Thật tình mới nhìn hai xách quà, tôi đã đoán ngay là của ông Đ. Người nhà tôi không thể bới quà nhiều như thế. Mảnh giấy lại viết mấy chữ “Chúc ông mạnh khỏe” càng xác nhận đó không phải là người nhà của tôi. Cái tên Mai Hoàng Bích hoàn toàn xa lạ cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên. Tôi chỉ ngạc nhiên khi thấy chính ông Đ. cũng ngớ ngẩn không biết Mai Hoàng Bích là ai. Tuy thế, tôi vẫn giao cho ông Đ. khui quà. Có nhiều món quà khiến chúng tôi dễ xác nhận được nó phát xuất từ xã Phước Tỉnh: một bịch lớn cá thu cắt thành lát đã phơi khô, một xoong đầy cá bống đã được kho sẵn thơm tho ngon lành. Có nhiều bọc quà khác tôi không rõ thứ gì. Đặc biệt nhất là trong số quà, có một cái bình thủy mới toanh. Ông Đ. vừa kiểm đồ vừa suy nghĩ. Lát sau ông nói:

 

– Tôi biết rồi! Mai là tên đứa cháu gái kêu tôi là bác ruột, Hoàng và Bích là tên hai đứa con của nó. Chồng nó là thiếu tá đã chết trận. Thảo nào nó viết câu nhắn “Chúc ông mạnh khỏe”, nãy giờ tôi cố nhớ vẫn không ra đó là đứa cháu nào. Chút nữa thì ông bác nó mất thăm nuôi!

 

Đói khát lâu ngày, nay thấy quà ngổn ngang, nước miếng tôi cứ rệu ra. Tôi rất nôn nóng đợi một lệnh của ông Đ. Thế nhưng ông cứ lo xếp đặt món này qua món nọ, có vẻ tính toán phân vân. Sau cùng ông trải tờ báo và để lên một số thức ăn: một ô nhựa cơm trắng, một vỉ trứng gà, gắp ra một chén thịt heo kho, một chén cá bống kho và một mớ rau cải.

 

– Ông đem chén đũa lại ăn cơm cho vui!

 

Thật là một lời như cởi tấm lòng! Nhưng tôi cũng đâm lừng khừng, sốt sắng quá, tôi ngại bị khi dễ. Tôi cầm bát đũa từ tốn đến bên ông ngồi đợi. Chủ nhân chưa động đũa mình đâu dám làm hỗn! Ông Đ. thong thả lấy một quả trứng gà đập đầu và hút, xong ông quay lại nhìn tôi, vẻ mặt tươi rói, cười cười nói:

 

– Trứng ngọt quá ông ơi! Ngọt thiệt! Ngọt thiệt! Ngọt thiệt!

 

Tôi nóng ruột chờ đợi. Nhưng ông Đ. không để ý, tiếp tục cầm một cái trứng khác đập đầu đưa lên hút. Tôi ngượng đến nóng cả người mà không biết nên làm sao. Thế rồi tôi đưa đại chén vào đơm cơm. Lúc ấy ông Đ. mới nói:

 

– Ừ, ông cứ đơm cơm tự nhiên! Trứng ngọt quá! Trứng ngọt quá! Tôi phải thử thêm mấy quả đã.”

 

Tôi đơm xong cơm thì ông Đ. lấy đũa gắp bỏ vào chén tôi mấy miếng thịt và hai khúc cá bống lớn. Hình như chưa đã, ông lại tiếp tục đập trứng. Ông hút một mách gần cả chục trứng rồi mới ăn cơm. Phải nói đây là bữa cơm tuyệt vời nhất từ khi tôi vào khám đường Bà Rịa. Chén cơm trắng thơm dẻo làm sao! Từng thớ thịt cá bống thơm mềm, từng thớ thịt heo béo ngọt làm sao! Tôi không dám ăn nhanh, cứ nhẩn nha để tận hưởng từng giây phút khoái cảm ấy. Ông Đ. ăn có vẻ mạnh bạo lắm –  dĩ nhiên, vì ông lúc ấy là chủ nhà. Đang nhai nhai nói nói, bỗng nhiên ông Đ. hắt hơi một cái. Cơm từ miệng ông văng tung toé bốn phía, văng cả vào chén thịt, chén cá, ô cơm và cả chén cơm tôi đang bưng nữa. Ông vội vàng xin lỗi tôi. Khổ ơi là khổ! Thế là tan biến hết những cảm khoái của một bữa cơm ngon! Tôi đâm ra khó xử. Trong hoàn cảnh đói khổ này, không lý mình đứng dậy? Tôi phải cố gắng làm như không quan tâm gì chuyện đó. Nhưng nuốt trôi được bữa cơm thịnh soạn đó, đối với tôi lúc bấy giờ chỉ còn là một cực hình. Mãi tới khi ông Đ. bẻ đưa cho tôi một trái chuối, tôi mới tìm lại được chút ít khoái cảm ban đầu.

 

Ngày ấy, cả ba vị linh mục đều nhờ mượn tên người cùng phòng, được thăm nuôi cả, nên các ông chỉ nói chuyện với nhau chứ chưa gởi quà cho nhau. Cũng trọn ngày, tôi được lãnh nguyên hai phần bột và canh của nhà bếp. Dù đã được ăn cơm khách, tôi vẫn thanh toán hết cả hai phần cơm nhà bếp, bữa nào xong bữa nấy như thường. Ông Đ. không lãnh phần ăn nhà bếp thì ăn lai rai quà thăm nuôi. Khoảng nửa chiều, ông Đ. đem con gà luộc ra xé. Ông để những miếng thịt ròng vào một cái tô, còn tất cả phần có dính xương ông trao hết cho tôi và nói:

 

– Ông thanh niên răng tốt chắc ăn thứ này được? Trong hoàn cảnh này, không nên bỏ phí thứ gì hết!

 

Ông nói đúng quá đi chứ! Tôi cám ơn và đưa cái chén ra thầu tuốt. Xong, tôi đem về chỗ mình ngồi gậm. Tôi lần lượt nhai bể từng cái xương để hút cho kỳ hết từng chút tuỷ bên trong. Tuy thịt không còn nhiều nhưng phải nói là ngon đáo để. Ăn thịt gà xong, ông Đ. lại bày cơm ra và mời tôi. Ông Đ. cũng gắp bỏ thịt và cá vào chén tôi như buổi sáng. Nhưng lần này, “nhận quà” xong, tôi vội lấy cớ cần ngồi dựa vách cho thoải mái, bưng ngay về chỗ mình. Tôi vẫn không quên cú sặc cơm văng tung toé lúc sáng của ông. Hình như tôi làm vậy, ông Đ. cũng vui lòng như tôi.

 

Đố ai biết chuyện gì đã xảy ra sau đó? Cơm xong là ông Đ. bị mệt, không thể ngồi đọc kinh hay nói chuyện xuyên tường được. Ông buông mùng nằm sớm, không biết có ngủ được không. Riêng tôi, đêm đó lại có vẻ khỏe người hơn và không ngủ sớm như thường lệ. Khoảng chừng chín giờ tối, tôi bỗng nghe tiếng gõ nhẹ ở cửa. Ai đến làm chi lúc này nhỉ? Tôi giả vờ ngủ say không biết. Ông Đ. cũng im lặng. Tiếng gõ cửa lại tiếp tục, vẫn nhẹ nhưng có vẻ gấp gáp hơn. Ông Đ. vẫn im lặng, chắc ông ngủ thật rồi. Tôi đứng dậy tiến lại gần cửa hỏi:

 

– Ai đó?

 

Đáp lại là cái giọng quen thuộc của Sơn, anh cán bộ võ trang dữ tợn nhất trong khám đường, nhưng lần này anh ta lại nói giọng nhỏ nhẹ đầy thân tình:

 

– Anh mới được thăm nuôi chắc vui vẻ chứ?

 

Khó nói thật, thăm nuôi của người khác chứ đâu phải của tôi!

 

– Cám ơn cán bộ, vui vẻ.

 

– Khi sáng, thấy người nhà gởi cho anh cả chùm lạp xưởng, anh ăn hết chưa?

 

Trời đất! Chính tôi cũng không biết là trong đồ thăm nuôi của ông Đ. có chùm lạp xưởng nữa. Tôi lúng túng:

 

– Thưa...

 

Tôi định nói tôi chưa coi kỹ đồ thăm nhưng nghĩ lại thật là vô lý. Thăm từ sáng mà giờ này chưa coi kỹ là sao? Lạng quạng với mấy gã này chẳng khác chi giỡn mặt tử thần! Tôi chưa biết nói sao thì viên cán bộ tiếp:

 

– Tôi nghĩ là anh chưa ăn hết đâu! Anh cho tôi xin hai cái nhé!

 

– Dạ, để tôi hỏi ông già, ông đang ngủ.

 

– Đánh thức ông ta dậy làm gì! Của anh, anh muốn cho ai mắc mớ chi tới ổng?

 

– Dạ, tôi không có đồ đựng, tôi gởi ổng.

 

– Vậy thì lẹ lẹ lên! Tôi thấy có một hộp kẹo sô-cô-la nữa, cho tôi vài cái luôn!

 

Tôi bước tới lay ông Đ. dậy. Gặp lúc ông ta đang xì rấm thúi đến nhức đầu khiến tôi phải nín thở, không dám mở miệng.

 

– Cái gì thế? Tôi đang đau bụng quá trời đây nè!

 

Tôi chờ một chốc cho tản mùi hôi mới dám nói:

 

– Cán bộ Sơn xin hai cái lạp xưởng và một ít kẹo sô-cô-la. Lấy gấp kẻo ông ấy đang đợi đấy.

 

Ông Đ. vùng vằng dường như không muốn chịu.

 

– Xong chưa? Gì mà chậm như rùa vậy?

 

Nghe tiếng giục của cán bộ Sơn, ông Đ. mới lật đật mở túi xách lấy đồ ra. Tôi đem hai cái lạp xưởng và nắm kẹo đưa qua lỗ thủng ở cửa cho cán bộ Sơn. Anh ta có vẻ không hài lòng:

 

– Bấy nhiêu thôi à? Cám ơn anh.

 

Tôi vừa tức cười vừa bực mình, về chỗ chun vô mùng nằm liền. Trong khi ấy, ông Đ. lục đục làm gì đó trong bóng tối tôi không nhận rõ. Một chốc sau, tôi biết là ông đang đi cầu. Mùi xú uế tỏa thúi inh cả phòng. Tôi phải lấy cái áo lót mà bưng mũi mình lại.

 

Sau khi ngủ được một giấc, tôi lại giật mình vì tiếng lục đục của ông Đ. “Ngán thay cái mũi vô duyên, Béo bùi một trận trăm phiền kéo theo!” Đêm ấy ông Đ. đi cầu tới sáu bảy lượt. Việc ấy đã làm tôi chịu khổ sở và mất ngủ lây. Hôm sau thấy người ông xụi lơ, gần như bước không muốn nổi.

 

Cũng may, cơn bệnh của ông không kéo dài thêm bao lâu. Những ngày kế tiếp, ông Đ. lại bồi dưỡng tới tấp. Có khi ông cầm cả con lạp xưởng để ăn mà không cần nướng. Cá thịt, sữa bánh, đậu phộng, đậu nành rang đã làm ông bận rộn suốt ngày. Nhờ cái bình thuỷ, hằng ngày ông được đám đệ tử ở nhà bếp ưu tiên thêm cho một phích nước nóng để pha trà, pha sữa. Lúc này thì tôi biết ông ta chỉ quen thói “độc ẩm”.

 

Với tôi, hằng bữa ông Đ. lại gắp cho một ít đồ ăn, khi miếng thịt heo, khi khúc cá bống, lâu lâu một khúc cá thu. Những khúc cá thu khô ấy đã được hấp chín rồi, tuy khô nhưng ngon ngọt lạ lùng. Có lẽ nhờ sự bồi dưỡng ấy, bệnh ghẻ ở người tôi cũng cầm chừng, không thấy phát triển nữa.

 

Trước kỳ thăm nuôi kế tiếp vài ngày, một đêm, trong khi ông Đ. đang nói chuyện xuyên tường, bỗng nghe tiếng gõ cửa. Ông hoảng hồn vội bước xuống giường. Ai ngờ lần này cũng chính là hung thần Sơn viếng đêm. Gã nói:

 

– Kêu anh kia dậy tôi hỏi cái này, còn anh đi ngủ đi!

 

Thế là ông Đ. qua cơn hú vía. Ông lay tôi dậy bảo đến gặp cán bộ Sơn. Tôi vừa mở miệng chào thì Sơn nói ngay:

 

– Anh còn lạp xưởng không? Còn thì cho tôi mượn vài con!

 

Tôi lại lúng túng hết sức, làm sao tôi biết được còn hay hết, tôi có giữ nó đâu? Từ khi thăm nuôi tới giờ, ông chủ hờ này thật tình chưa được đụng đến một miếng lạp xưởng nào.

 

– Dạ, cán bộ cho tôi coi lại đã!

 

Tôi quay lại hỏi nhỏ ông Đ. Ông cũng nói nhỏ: “Hết rồi!” Tôi trở lại nói:

 

– Thưa cán bộ, hết cả rồi!

 

Sơn giận dỗi nạt:

 

– Thế mà cũng lâu lắc! Đồ ăn trong túi mà cũng không biết còn hết à? Trong tù ăn uống phải dè xẻn để dành chứ, cứ có bao nhiêu ăn hết bấy nhiêu, khi bị cúp thăm lúc đó mới biết thân!

 

Rồi anh ta hậm hực bỏ đi. Tôi quay sang nói với ông Đ.:

 

– Chắc nó giận lắm đấy!

 

Ông Đ. nói:

 

– Kệ nó! Đồ cái thứ vong ơn bội nghĩa! Thật sự tôi còn một cây chứ đâu phải hết. Nhưng nếu mình cho thì nó lại bắt quen. Đêm hôm, chẳng lẽ nó lại dám soát phòng sao mà sợ?

 

Tôi chỉ sợ nó nghĩ tôi ích kỷ, nó thù thôi. Nó đâu có biết được tôi chỉ là chủ hờ! Vì thế tôi đề nghị với ông Đ.:

 

– Hay lần thăm sắp đến, ông để tôi giữ cho mấy cái, phòng khi nó đến xin nhé!

 

Ông Đ. cười:

 

– Cứ tới đó rồi hay!

 

Tôi thật sự thấy bất mãn với ông Đ. khi ông ấy trả lời như vậy. Cứ làm chủ hờ kiểu này dễ bị chết oan quá!

 

Bữa ăn trưa hôm sau, khi ông Đ. gắp một miếng thịt heo kho đưa vào miệng thì cắn nhằm một vật lạ. Ông liền nhả ra xem vật gì. Đó là một bọc nylon xếp nhỏ được ràng rịt kỹ bằng mấy sợi cao su. Ông mở xem thì thấy bên trong gói một tờ giấy bạc hai mươi đồng và một mảnh giấy ghi hàng chữ: “Tình hình bên ngoài không được yên, cầu ơn trên cho cha được sức khoẻ”. Ông Đ. đưa cho tôi xem và cười khoái trá:

 

– Làm thế này thì bọn vong ân bội nghĩa làm sao biết được? Cũng may mình tò mò, cứ tưởng vật gì lộn vào mà vứt đi thì hoài của.

 

Kỳ thăm nuôi lại đến. Lần này tôi ngồi sát cửa dán mắt vào một lỗ hổng quan sát đám tù nhà bếp đưa quà đến các phòng. Lòng tôi vui vui mỗi lần nghe tên một người quen được thăm. Khi tù nhà bếp phát phần ăn trưa, chúng tôi vẫn chưa được thăm nên cùng nhau ăn liền cho rồi việc. Đến khoảng hai giờ chiều thì tôi được gọi tên. Thấy trên tay anh tù nhà bếp chỉ có vỏn vẹn một xách đệm nhỏ, tôi hơi ngạc nhiên. Hay cái giỏ ấy là của người nào khác? Nhưng quả thật viên cán bộ đến mở cửa phòng tôi.

 

– Ai thăm nuôi biết không?

 

– Mai Hoàng Bích!

 

– Không phải!

 

Tôi nói đến tên người chị của tôi thì đúng ngay chóc. Xách quà thăm chỉ có bốn ổ bánh mì, một gói cá khô, năm hột vịt lộn, một gói xôi đậu và một nải chuối. Quà tuy ít nhưng tôi mừng lắm, như vậy là người thân của tôi đã biết tôi bị giam ở đây rồi. Cửa vừa đóng thì tôi đem bánh mì và hột vịt lộn ra mời ông Đ. cùng ăn. Nhưng chúng tôi mới ăn nửa chừng thì lại nghe bên ngoài có tiếng gọi tên tôi. Chúng tôi vội dẹp bữa ăn dở dang vừa kịp lúc cửa mở. Đồ thăm gồm hai xách bự sư. Chắc đúng là của Mai Hoàng Bích rồi! Tôi cực kỳ hồi hộp lo lắng. Tôi cứ sợ viên cán bộ nhớ ra được tôi mới nhận quà cách đây chưa tới một tiếng thì thật phiền. Mãi tới khi quà trao cửa đóng xong xuôi, tôi mới thật sự an lòng. Cán bộ vừa đi khỏi, ông Đ. liền hớn hở khui quà. Lần này quà có phần nhiều hơn lần trước.

 

(Còn 1 kỳ)

 

– Ngô Viết Trọng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trại Sikiew, đêm văn nghệ mừng Năm Mới diễn ra trên Bãi Đá năm ấy có vài giọng ca gây bất ngờ. Đầu tiên phải kể đến Vân Đại Bàng với bài hát Đường Xưa Lối Cũ hay thần sầu, bà con vỗ tay rần rần...
Từ mấy hôm nay Thi nôn nóng chờ đợi ngày về quê thăm nhà. Nàng cứ loay hoay tính toán mãi không biết phải mua quà gì về cho mấy đứa em. Con gái đi học xa nhà, thật sung sướng và hạnh phúc biết bao mỗi khi có dịp nghỉ lễ dài để trở về sống với gia đình thân yêu...
Tôi dần dà để ý đến một cặp vợ chồng Á Châu. Không hiểu tại sao, tôi đoan chắc họ là vợ chồng, chứ không thể là tình nhân, hay hàng xóm. Họ đến mua hàng hầu như mỗi ngày ở siêu thị tôi đang làm việc...
Hai bài thơ của Trần Hạ Vi...
Cuối đời Đông Hán nước Tàu, tại quận Cự Lộc có nhà cự phú họ Trương sinh được ba anh em là Trương Giốc, Trương Bảo, Trương Lương. Khi ông bà Trương mất thì Bảo và Lương hãy còn nhỏ, Trương Giốc thay quyền cha mẹ nuôi dạy hai em...
Tuy Hòa, nơi tôi ở cách nay gần bẩy chục năm, là một thành phố nhỏ hiền hòa nằm sát bờ biển, giống như nàng “Mỹ Nhân Ngư” phơi tấm thân kiều diễm trên bãi cát trắng tinh. Nàng dựa đầu trên núi Chóp Chài, đôi mắt mơ màng nhìn ra biển Đông, nghe gió thổi vi vu qua những bãi thùy dương dày đặc trên bãi biển Đại Lãnh, đầu đội vương miện hình Tháp...
Chắc bạn đọc nghĩ là tôi đang ở Hà Nội, hay Sài Gòn. Không. Chúng tôi đang du lịch châu Âu. Chuyến nghỉ hè năm nay, cùng với đôi bạn từ Quận Cam, tưởng đã không thành vì Delta Airlines huỷ chuyến bay vào giờ chót, sau khi đã có thẻ lên tầu. Lên mạng tìm vé khác và bên Turkish Airlines còn chỗ để đưa chúng tôi đến Barcelona, Tây Ban Nha là thành phố đầu tiên của chuyến du lịch...
Buổi sáng bến xe Tây Ninh đông đúc và ồn ào. Tiếng rao hàng của đám bán hàng rong vang lên inh ỏi, từ bán bánh mì, bán nước trà đá, nước ngọt bỏ bao, đến bọn người bán sách báo dạo, cứ gặp ai cũng chìa hàng đến trước mặt, giọng mời gọi...
Cái cối xay bột nước lắp ráp xong chị Bông đã xay thử đậu nành rồi xay gạo thấy cả hai đều thành bột mềm nhuyễn đúng ý. Coi như chị đã “khai trương” cái cối xay bột nước của mình mặc dù khi lắp cối xong ông thợ cối đã xay thử bột nọ bột kia rồi. Hôm ấy cả nhà chị được ăn món bánh xèo chiên giòn và uống sữa đậu nành nấu với lá dứa vừa thơm vừa béo thật ngon...
Hai chị em Quỳnh Trâm và Bội Trâm hôm nay được mẹ dạy làm món bánh trái cây bằng bột đậu xanh để đón anh gia sư của hai nàng. Những chiếc bánh xinh xinh đủ màu sắc của trái khế vàng, trái ớt đỏ, trái mảng cầu… được bày sẵn trên khay thật hấp dẫn...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.