Đầu thập niên 1990, tôi có diễm phúc được làm việc với nhạc sĩ Cung Tiến và từ đó dần trở nên một người bạn thân với gia đình ông. Trước đó, tôi nghe người ta đồn là nhạc sĩ Cung Tiến ‘khó tính” lắm! Nhưng qua những lần làm việc với ông, tôi thấy ông bị oan. Ông không khó tính vì xấu tính. Ông thực ra là một người rất nhỏ nhẹ, trí thức và uyên bác mà khiêm tốn. Ông chỉ có tiêu chuẩn cao cho nhạc của ông và ông mong muốn nhạc của ông được trình bày với những tiêu chuẩn đó. Tôi đã có cơ hội học hỏi thêm về những tiêu chuẩn này của ông.
Lúc ấy nhân duyên đưa đẩy, tôi được biết đến bài Vết Chim Bay của ông và xin phép ông cho tôi thu âm bài đó vào CD. Ông chắc cũng chưa nghe tôi hát bao giờ, nhưng cũng cho phép, mà cũng không nhận tiền bản quyền, lại còn cho tôi cả bản hòa âm phối khí dàn nhạc của ông cho tôi sử dụng nữa! Khi tôi đưa bài cho Duy Cường làm theo hòa âm phối khí của Cung Tiến thì Cường “kêu” là mất công lắm. Thường thì các nhạc sĩ Việt Nam viết ca khúc chỉ viết giai điệu thôi, có thể viết thêm những hợp âm cho bài hát, nhưng rất ít người viết soạn hòa âm hay phối khí cụ cho bài hát của mình. Do đó, các nhạc sĩ hòa âm tha hồ muốn hòa âm phối khí sao cũng xong và có thể làm rất nhanh. May thì hay, nhưng nhiều khi nghe không có gì đặc biệt cả và có khi còn chói tai nữa. Duy Cường là một người hòa âm hay, nhưng theo tôi, bài Vết Chim Bay phải dùng hòa âm của Cung Tiến mới đạt! Duy Cường phải đánh vào máy từng phần của các nhạc khí từ tổng phổ ông Cung Tiến cho, để cho vào “synthesizer” và đưa cho các nhạc sĩ chơi phần của họ.
Kết quả nói chung làm hài lòng Cung Tiến. Ông chỉ có một điều không vui lắm là Duy Cường cắt đi một trường canh sau câu “trong tiếng chuông chiều đưa” vì Cường nghĩ là không cần thiết. Lúc đó tôi cũng nghĩ như Duy Cường vì trường canh này thật ra chỉ là lập lại của trường canh trước, có cắt đi cũng không sao. Tuy nhiên, sau này, khi hát lại bài này, thì tôi thấy ông Cung Tiến rất có lý. Trường canh đó tuy là lập lại của trường canh trước, nhưng sự lập lại rất cần thiết như tiếng chuông thường được gõ hơn một lần thì mới có thì giờ lắng sâu vào tâm hồn người nghe được. Thế mà lúc ấy ông chỉ nhỏ nhẹ hỏi tại sao cắt thôi, chứ không la lối trách móc gì cả. Đó là một thí dụ về sự “khó tính” mà không khó tính của Cung Tiến. Ông để ý từng chi tiết nhỏ nhưng cũng rất thông cảm cho những người trình diễn.
Sau đó một thời gian, ông có soạn bài Lơ Thơ Tơ Liễu theo một bản chèo cổ, cho giọng hát, thụ cầm và dàn dây, và cho tôi cái hân hạnh được hát lần đầu tiên với Roseville String Ensemble ở Minnesota. Lần này tôi biết hơn về sự cẩn thận, sự trân trọng âm nhạc của ông. Ông đưa bài trước cho tôi cả hơn một tháng và nhắc nhở những chi tiết nhất là những đoạn đảo phách phải hát sao cho rõ mà phải tự nhiên. Bài ông soạn rất kỹ, ghi chú rõ những chỗ lớn nhỏ như thế nào, nhanh chậm ra sao, diễn tả tình cảm gì, v.v.. Bản tổng phổ có đầy đủ các phần của các nhạc cụ nữa. Nhờ sửa soạn kỹ như thế, khi đến Minnesota, tôi chỉ cần cùng dàn nhạc dượt một lần là có thể trình bày ăn khớp ngay. Không phải chỉ bài này mà bài hát nào ông cũng soạn kỹ như vậy. Đấy, ông khó tính như thế. Nhưng ông cũng rất chịu khó nghe ý kiến của người hát, và nếu có những chỗ khó khăn người hát cần thay đổi một chút để hát dễ hơn, nếu có lý, ông cũng chấp nhận.
Có lần ông hỏi tôi là tại sao ca sĩ hay hát sai bài Hương Xưa. Tôi đã thưa với ông là vì tiêu chuẩn của ông quá cao. Thí dụ câu đầu tiên mà ai cũng biết của bài Hương Xưa là “Người ơi, một chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa” chẳng hạn, nếu hát như ông viết và muốn ca sĩ hát đúng mà hay, mà tâm tình, thì không ca sĩ nào có đủ dài hơi để hát cả! Vì vậy phải lấy hơi hay đổi nhịp đi để dễ hát hơn. Thế là ông cười và thông cảm. Nhưng có một điều mà ông không thông cảm là hát sai cao độ. Khi viết nhạc, ông rất để ý đến cao độ của từng nốt một. Khi sử dụng một nốt nào đó, ông đều có dụng ý cả, nên nếu nghe hát sai, ông thấy rất khó chịu. Mà không trách ông được! Theo ông, tuy ca sĩ cũng có quyền sáng tạo, nhưng vẫn phải trong khuôn khổ và phải biết và tôn trọng những điểm thiết yếu của bản nhạc. Ông còn soạn cả những nốt láy của từng câu từng chữ. Và phải công nhận là nếu hát láy đúng như những nốt ông viết thì hay hơn là những nốt ca sĩ tự chế nhiều. Ông lại viết hòa âm cho từng bài cho thích hợp. Theo thiển ý của tôi, hòa âm của Cung Tiến nghe rất hay và rất hòa hợp với giai điệu bài hát.
Ông cũng rất cẩn thận trong việc dùng chữ trong bài hát. Ca từ của ông tuyệt đẹp và có dụng ý. Trong những bài thơ phổ nhạc, ông cố gắng giữ càng nhiều chữ của thi sĩ càng tốt, chỉ thay đổi vì sự đòi hỏi vế âm diệu và tiết tấu của bản nhạc thôi. Ông không thay đổi lời ca một khi đã in ra, trừ vài trường hợp đặc biệt mà tôi được biết.
Một trường hợp là bài Hoàng Hạc Lâu. Trong bài hát có câu “Gần xa chiều xuống nào quê quán…” nhưng trong bài thơ của Vũ Hoàng Chương mà ông lấy để phổ nhạc, câu này lại là ”Gần xa chiều xuống đâu quê quán…”! Tôi có hỏi ông về việc này, thì ông bảo ngay là phải đổi lời của câu này thành ”Gần xa chiều xuống nào đâu quê quán…”để gần với chữ của Vũ Hoàng Chương hơn. Chữ nào có hai nốt nhạc, nên khi đổi thành hai chữ nào đâu rất dễ dàng và không đổi nhạc.
Một trường hợp đổi lời nữa là trong bài Mắt Biếc. Câu “Đâu ngờ phút giây huy hoàng, phút giây khổ đau!” trong những ấn bản đầu đã được đổi thành “Không tàn phút giây huy hoàng, không phút giây khổ đau” trong ấn bản mới nhất do Kim Lũ xuất bản năm 2010. Bài này ông viết tặng Josee, người bạn đời của ông, người mà ngay trước khi nhắm mắt sang thế giới khác, ông đã nói trong vòng tay bà: “Em là người yêu suốt đời của anh!” Tôi đã hỏi ông về việc này và ông đã cho biết sự thay đổi lời bài hát này phản ảnh tình yêu hạnh phúc của hai ông bà.
Có người cũng phàn nàn với tôi là Cung Tiến chối bỏ những bài hát ông làm lúc ban đầu như Thu Vàng, Hoài Cảm hay Hương Xưa là những bản nhạc được nhiều người biết đến và yêu quý nhất. Thật ra ông không hề chối bỏ chúng. Nhưng đối với ông, những bản nhạc đó là những bước đầu trong sự trưởng thành về âm nhạc của ông, và ông có buồn khi nhiều người cho rằng đó là tiêu biểu cho sự nghiệp âm nhạc của ông. Qua những lần trò chuyện với ông, tôi biết là ông mong muốn những tác phẩm sau này của ông được giới thưởng ngoạn biết tới hơn. Tôi thông cảm với ông nhiều vì khi mình có cái gì tốt đẹp muốn chia sẻ với mọi người mà người ta chỉ thích cái ít đẹp hơn thì ai mà chẳng buồn. Có điều, sự hiểu biết về nhạc và trình độ thẩm âm của ông quá cao so với đa số quần chúng, do đó nhạc của ông thường bị coi là quá bác học và khó thưởng thức. Thôi thì vài mươi năm hay vài trăm năm nữa sẽ có nhiều người tri âm Cung Tiến hơn!
Ông đã ra đi êm ái như một vết chim bay. Cầu mong ông được yên nghỉ.
Bích Liên
Bích Liên
Gửi ý kiến của bạn