Hôm nay,  

Văn Cao – Tượng chưa thành tượng

22/04/202209:38:00(Xem: 2187)

Tạp bút

van-cao
Văn Cao.

              

“… Ngồi đây ta gõ ván thuyền

Ta ca trái đất chỉ còn riêng ta…”

 – Trương Chi (Văn Cao)

 

Rong chơi không phải là lẽ sống của đời, nhưng có nhiều giai đoạn ở Saigòn, chúng tôi chẳng còn biết tính toán ra sao, ngày mai sẽ như thế nào, và định làm gì cho tuần tới? Đó là thời điểm sau 1975. Miền nam Việt Nam bàng hoàng vì mọi thứ bị dập vùi, đất nước bỗng dưng mà biến đổi thê lương. Chán chường và tuyệt vọng, nên dù đời sống cứ phải ngồi bần thần, hay chạy đua cùng lam lũ… thì một số những văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn xao xác với chuyện tụ tập và rong chơi.

 

Không phải chỉ riêng tại căn chung cư nhỏ của chúng tôi ở cư xá Thanh Đa, mà còn có bên Làng Báo Chí với nhà chị Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, nhà anh Nguyễn Đình Toàn, và đặc biệt là ở nhà anh Trương Đình Quế, một điêu khắc gia hào phóng và rất đông bè bạn.

 

Chuyện đáng nhớ nhất về anh, trong một tối cafe nơi quán nhỏ, vui miệng anh nói vài lời dịu dàng với cô chủ quán xinh xinh. Đanh đá và đầy kiêu ngạo, cô thách, nếu anh dám ăn hết lá xanh của cây ớt kiểng ngay cạnh bàn cafe đó, thì cô sẽ làm bạn với anh. Vậy mà Trương Đình Quế ngồi đến khi quán sắp đóng cửa, cam tâm bứt hết những lá ớt, và suốt hai tiếng, nhẩn nha ăn một lèo như thỏ trong tiếng cười vui của chúng tôi.

 

Anh sống hồn nhiên, xem những học trò học điêu khắc của mình trong trường Mỹ Thuật Gia Định như bạn nhậu, la cà cafe thuốc lá… Ban giám đốc của trường viết thư cảnh cáo đôi lần, Trương Đình Quế nổi giận bỏ luôn trường từ đó. Anh sẵn sàng chọn thú vui ngồi thù tạc với đám học trò chịu chơi, sống bạt mạng, hơn là cố phải ra vẻ đĩnh đạc, nghiêm trang như một người thày giảng dạy.

 

Thời đó, một số văn nghệ sĩ từ Miền Bắc hay tìm đến chơi với dân văn nghệ Sài Gòn. Họ như muốn tìm hiểu về những sinh hoạt của văn nghệ sĩ Miền Nam. Họa sĩ Bùi Quang Ngọc, em của nhà văn Bùi Quang Đoài trong Nhân Văn Giai Phẩm. Nhạc sĩ Trần Tiến hay Dương Thụ… Tôi nhớ mãi tiếng hát Trần Tiến lúc ngà ngà say, anh có chút vẻ giang hồ là lạ, mang mang như cái nắng cái gió của Hà Nội.

 

Đặc biệt, trong một buổi trà dư tửu hậu, căn chung cư nhỏ của chúng tôi đã không đủ chỗ quây quần cho rất đông bạn bè, chúng tôi ngồi quanh một thi sĩ vừa vào thăm Saigon. Thi sĩ Hoàng Hưng. Đêm đó Thanh Đa cúp điện, thơ Apollinaire như lãng mạn thêm với ánh đèn dầu không sáng, lại cũng chẳng thể tối hơn. Anh Hoàng Hưng đọc những vần thơ bàng bạc u sầu, trong tiếng gió êm đềm cùng trăng sáng, bên dòng sông nhỏ trước hiên nhà. Tiếng Pháp tôi không hiểu hết, nhưng qua giọng đọc truyền cảm của anh, Thơ như đã dạt dào thêm, đã miên man lắng đọng hơn cùng với nhiều xúc cảm.

 

“...J’ai cueilli ce brin de bruyère

L’automne est morte souviens-t’en

Nous ne nous verrons plus sur terre…”

 

Khó mà ai có thể tưởng tượng, chỉ mấy năm sau, người thi sĩ mà chúng tôi rất quí mến này đã bị giam tại Hỏa Lò tới 3 năm, chỉ vì cầm tập bản thảo “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm.

 

Trong một buổi họp mặt tại nhà Trương Đình Quế bên Làng Báo Chí, anh đã mời không thiếu một ai trong ngày dự định thực hiện bức tượng Văn Cao. Sự hiện diện của nhạc sĩ Văn Cao mà tôi và Nghiêu Đề hằng ngưỡng mộ trong suốt bao năm dài, khiến chúng tôi không thể không có mặt. Lao xao, rộn rã và cả với ngậm ngùi, chúng tôi ngồi quanh những hộp đất sét. Đất vô giác, đất vô tri rồi sẽ qua bàn tay khéo léo đầy sáng tạo của Trương Đình Quế, để thành chân dung Văn Cao, như nhạc sĩ từng mong đợi.

 

Đẹp xấu thế nào chưa ai biết nhưng trước tiên phải là rượu.

 

Rượu rót tràn ly, rượu mời chào rộn rã. Chưa ai kịp nâng ly, bỗng Trịnh Công Sơn lên tiếng phàn nàn: “Mi đãi Trịnh Công Sơn và Văn Cao mà bằng rượu nếp than này sao?” Trương Đình Quế cố gắng chống chế, nhưng cũng đỏ mặt buông lời bất bình: “Anh em có gì uống nấy, vui chơi thôi, tên tuổi gì ở đây, mấy cha!?...”

 

Trịnh Công Sơn bỏ về, chỉ chào duy nhất Văn Cao.

 

Một thoáng lặng im, mọi người nhìn nhau; nhưng chỉ vài phút sau, mạnh ai nấy huyên thuyên, cười nói. Ai đi, ai bỏ về, thiên hạ... quên hết!

 

Riêng nhạc sĩ Văn Cao, người duy nhất có vẻ còn lấn cấn chuyện Trịnh Công Sơn, ông cầm ly hướng về phía tôi: “Mời người trẻ nhất!”

 

Chị Thụy Vũ đưa ly rượu của chị cho tôi. Lần đầu tiên nhấp chút rượu, môi đắng ngắt với chất nồng nồng cay làm tôi say sưa nhớ.

 

Nhớ Suối Mơ, nhớ Bến Xuân, nhớ Buồn Tàn Thu và nhớ cả Thiên Thai... Tôi nhớ một trời của

những thanh bình cũ dù chẳng biết gì về Hà Nội, nhưng tôi hay mơ màng qua nhạc của Văn Cao. Những cung bậc êm đềm, huyền ảo và thanh thoát.

 

Phong cách uống của Văn Cao hơi khác mọi người. Ông ngồi như thiền rất lâu trước ly rượu đầy. Thiên hạ xong ly thứ ba, ông mới đủng đỉnh bắt đầu ly thứ nhất. Rượu nồng hơn hay là đã nhạt? Văn Cao mặt tái dần với chòm râu trăng trắng. Ông uống và ông cứ uống.

 

Để yên cho Trần Quang Lộc tha hồ múa cùng bè bạn, Trương Đình Quế phác thảo chân dung Văn Cao. Qua giấy, tôi thấy đã đủ đẹp, dù chỉ bằng bút chì.

 

Rất ồn ào, thiên hạ cười nói, tôi nghĩ cả Trương Đình Quế lẫn Văn Cao, không ai tập trung đủ cho bất cứ điều gì, trong một không khí đông người như thế.

 

Bạn bè rồi tan tác.

 

Mỗi người một phương. Như chúng tôi rồi cũng bỏ nước ra đi…

Hai mươi năm sau tôi trở lại Làng Báo Chí. Vẫn nụ cười nhàn nhã, thảnh thơi, vẫn Trương Đình Quế hồn nhiên và ấm áp. Tôi ngồi dùng bữa cơm chiều cùng anh chị, lan man với nhiều chuyện cũ mới. Anh chỉ tôi xem tượng Trịnh Công Sơn, tượng Bùi Giáng…

 

Lăn lóc trong góc nhỏ, một chân dung nào đó chưa thành hình.

 

Khối đất sét nứt nẻ như những vết thời gian chồng chéo trên mặt. Thêm vài vết xẻ dọc dài trên trán, trông thật giống những sợi tóc mỏng loà xoà. Đôi mắt khoét sâu chưa ra một ánh nhìn, nhưng trong trũng sâu của đôi mắt tối, tôi chợt hình dung ra những lao lung những cay đắng của một đời người.

 

Tôi không hỏi, Trương Đình Quế cũng chẳng nói là ai.

 

Chúng ta có cần phải đặt một cái tên nào cho những chân dung chưa thành hình, những gương mặt còn nguyên si với nhiều méo mó? Vả chăng, tôi sợ những đẽo gọt, những mài giũa cho ra đúng một chân dung nào đó, đã nhiều khi làm biến mất, làm nhạt phai những kỷ niệm trong một buổi chiều sắp tàn của những năm xưa.

 

Tôi nhặt bức tượng mãi vẫn chưa thành tượng, trang trọng đặt lên bệ cửa sổ.

 

Chút nắng nhạt của chiều hắt trên hố mắt trũng sâu, sắc như một đường dao cắt. Nhạc sĩ Văn Cao.

 

Lê Chiều Giang

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thơ của hai thi sĩ Huỳnh Liễu Ngạn & Thy An...
Chiếc xe khách Sài Gòn ra Huế tạm dừng ở thành phố Nha Trang vào khoảng bốn giờ chiều. Xe chưa đậu hẳn thì đã có bao nhiêu kẻ bán hàng vặt ồ ạt phóng tới miệng rao hàng inh ỏi tạo thành một thứ âm thanh hỗn loạn. Một số ăn xin tật nguyền, què cụt cũng cố chen lấn tranh nhau hành nghề...
Tôi quen biết Loan thật tình cờ, người đời thường gọi là “duyên”, với tôi, là một định mệnh từ muôn kiếp trước, đã gắn liền hai cuộc đời chúng tôi thành hai chị em, thương yêu và gần gũi, giúp đỡ, an ủi nhau còn hơn chị em ruột thịt...
Bản thân tôi ít khi nào dám ngó về biển cả, dù thấy biển cả rất mênh mông, thoáng mát và êm ả qua nhiều hình ảnh. Cũng có lúc tôi trực diện biển khơi, nhưng chỉ là lúc biển êm sóng dịu rì rào ru hát « Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào… » hoặc là lúc mơ mộng, biển nhớ…
Thời gian sau 1975, tôi cỡ 9-10 tuổi, ngoài ông anh lớn đi dạy ở Cần Thơ, tôi có ba người anh đang học Đại Học, hằng tuần có bạn bè kéo về nhà tôi tụ tập ăn uống, đờn địch ca hát rất vui. Tôi nhỏ tuổi không được tham gia, nhưng có núp ở sau bếp... nghe lỏm...
Kanchanaburi là một tỉnh miền trung Thái Lan có biên giới chung với Miến Điện. Thủ phủ là thành phố cùng tên cách Bangkok 140km. Ở đây có cây cầu nổi tiếng xây dựng từ WWII, cầu sông Kwai...
Chiến trận ngày mỗi lan rộng, mức độ tàn phá cũng gia tăng khủng khiếp. Mỗi lần quân Pháp vào làng càn quét, dân chúng lại bồng bế nhau tản cư, chỉ còn dân quân tự vệ ở lại bảo vệ nhưng cũng yếu ớt lắm. Khi quân Pháp rút, để lại hàng chục xác chết, dân lại trở về chôn cất người chết, dựng lại gian nhà tranh bị thiêu rụi rồi tiếp tục cày cuốc kiếm sống. Cuộc sống đã nghèo khổ nay càng nghèo khổ hơn...
Câu chuyện bắt đầu, một người kể: “Sở dĩ con kên kên sói đầu vì nó ăn mít. Nó đút đầu vào ruột trái mít đục khoét. Mủ mít dính chặt lông. Khi rút đầu ra, lông dính lại. Đầu trọc lóc.” Người thứ hai lên tiếng: “Nói vô lý. Kên kên ăn xác chết, ăn đồ hôi thúi. Mít có mùi thơm. Kên kên không ăn đồ thơm.” Người thứ nhất trả lời: “Nói có lý nhưng xét ra vô lý. Kên kên không ăn mít thường nhưng ăn Sầu riêng. Mít Sầu riêng hôi lắm.” “Nói vô lý. Sầu riêng thơm kiểu khác. Cả triệu người ăn. Cả triệu người ghiền. Điên hay sao mà ăn đồ hôi.” “Bà thấy thơm nhưng tui thấy hôi. Quyền tự do mà. Cả triệu người không ăn Sầu riêng. Cả triệu người thấy Sầu riêng hôi.” “Nói tào lao. Hoa thì thơm. Phân thì hôi. Ai có thể ngửi thấy hầm lù thơm?” “Có thể hôi thúi, nhưng ở đó lâu ngày, quen đi. Thúi cũng như thơm. Giống những người ở xung quanh Kinh Nước Đen.”
Chắc bạn cũng có nghe câu chuyện về ông Phó Thủ Tướng Đức gốc Việt, từng là đứa trẻ mồ côi bên Việt Nam. Tôi thật sự cảm động muốn khóc, không phải vì ông là người có tài, đẹp trai, ăn nói khôn ngoan hay làm lớn mà vì nếu cha mẹ nuôi không mang ông về Đức, có thể hôm nay ông cũng đã là kẻ lang thang đầu đường xó chợ ở một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam...
Thơ của hai thi sĩ Quảng Tánh Trần Cầm & Nguyễn Hàn Chung...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.