Hôm nay,  

Nhã Ca Hồi Ký - Góc Nhìn Từ Thế Hệ Thứ 2

15/10/201900:19:00(Xem: 8313)
Hoi Ky Nha Ca
Hình bìa hồi ký 


Khi cầm cuốn hồi ký của cô Nhã trong tay, tôi đã biết là mình sẽ không đọc như đọc truyện, hay đọc một tác phẩm văn học. Đọc để nhớ lại ngày tháng, thấy lại một quãng thời gian đã qua đi 4 thập kỷ. Tôi biết là sẽ lại thấy hình ảnh của bố mình, của gia đình mình. Sẽ nhớ lại rất nhiều nhân vật mà tôi đã từng có lần cúi đầu khoang tay chào “cô ạ, chú ạ, bác ạ…”. Những người bạn của bố Sỹ- giống như cô Nhã- khi đã trải qua những sóng gió thăng trầm nhất của cuộc đời, thì tôi vẫn còn là một cậu học sinh trung học.

Đọc hồi ký cô Nhã, người tôi nhớ đầu tiên là chú Duy Trác. Hồi chú đi tù về năm 81, chú ghé thăm bố Sỹ ngay. Kể từ đó, chú thường ghé nhà tôi đánh mạt chược, tham gia những buổi văn nghệ bỏ túi, kể cho lũ con cháu nghe chuyện ở tù. Có một lần, khi nói về tác phẩm “Đi” của bố tôi lén gởi ra xuất bản ở nước ngoài, chú Trác nói như thế này: “… thời buổi này, bên nước ngoài, khi nhắc đến Việt Nam, người ta hay viết về nỗi khổ của những người vượt biên. Có một đề tài mà chưa có mấy người để ý tới: người ở lại. Cuốn “Đi” có nói về chủ đề này. Nhưng mà bố cháu viết còn hiền quá, chưa lột tả hết những bi hùng của những người ở lại…”.

Chỉ chừng một năm sau, cả bố tôi và chú Duy Trác đều đi tù lần thứ hai, trong vụ án “Doãn Quốc Sỹ và đồng bọn”. Bố tôi bị bắt chính vì cuốn Đi, còn chú Duy Trác vì hai ca khúc do chú sáng tác trong tù: Sài Gòn Chỉ Vui Khi Các Anh Về, và Tiếng Hát Đêm Noel. Cùng trong vụ này còn có các văn nghệ sĩ Hoàng Hải Thủy, Dương Hùng Cường, Lý Thụy Ý…

Tôi nhớ đến chú Duy Trác,  vì nghĩ rằng nay nếu có đọc Hồi Ký của cô Nhã, chắc chú sẽ nói rằng: viết như vậy là đã kể được chuyện của những người ở lại.

Ở lại! Ở lại Sài Gòn sau 1975. Ở lại để thấy, để nghe, để sống trên quê hương vẫn nhọc nhằn, đầy sợ hãi, lo âu dù chiến tranh đã chấm dứt. Đám thế hệ thứ hai chúng tôi- con nhà Doãn Quốc Sỹ, Duy Trác, Nhã Ca- Trần Dạ Từ… nay thỉnh thoảng vẫn gặp nhau ở bên xứ Mỹ. Chúng tôi đồng ý với nhau một điều: giai đoạn đáng nhớ nhất của cuộc đời là những ngày còn ở lại Việt Nam sau 1975. Bao nhiêu năm sống sung sướng ở xứ sở văn minh, giàu có này vẫn không có làm cho chúng tôi quên được những ngày tháng khổ cực nhất trong đời người. Có một điều lạ là ngay vào lúc đó, chúng tôi không cảm thấy là mình đang cơ cực. Hình như khi cả xã hội cùng khổ, thì sự chịu đựng trở nên dễ dàng hơn. Sau này khi kể lại chuyện xưa, chúng tôi còn có khuynh hướng dành vị trí “hồi đó gia đình tao khổ hơn gia đình mày…”. Cơ cực trăm bề là vậy, nhưng chúng tôi vẫn có những niềm vui, vẫn có nụ cười, vẫn nuôi dưỡng được tình người. Những hạnh phúc nhỏ bé vào thời điểm đó đáng giá ngàn lần so với sự đầy đủ, tiện nghi thừa thãi của ngày hôm nay.

Những người đã từng ở lại Sài Gòn sau 1975 sẽ cảm thấy mình là một phần trong hồi ký Nhã Ca. Nhà tù nhỏ, trong cái nhà tù lớn hơn. Cô Nhã là người đã từng ở trong hai lớp nhà tù. Đã có lần sau khi được trả tự do về để nuôi con, khi đối chất với cán bộ quản lý, cô Nhã nói rằng sẵn sàng trở lại nhà tù nhỏ nếu cần thiết. Bởi vì nhà tù lớn cũng đầy sợ hãi, bất công, đàn áp. Đối đầu với chế độ công an trị ở ngoài nhà tù lớn cũng không dễ dàng hơn trong nhà tù nhỏ.

Nhà tù nào khổ hơn? Tôi nhớ gia đình cô chú Dương Hùng Cường. Khi chú Cường bị bắt vào năm 1984, cô Cường là một giáo viên trường Hồng Bàng, đã tìm cách bán căn tin trong trường để đủ tiền nuôi con. Rồi sau đó chú Cường mất trong tù. Nỗi khổ chưa dừng lại. Vài năm sau, đến lượt cô Dương Hùng Cường chết vì tai nạn xe cộ. Trong ngày đám tang cô, các người con chắc đều chưa quá 18 tuổi. Đứa lớn nhất là Linh, trong đám tang mẹ hình như em không thể khóc. Chắc tại em còn đang phải hình dung ra những ngày sau này, khi không còn cả bố lẫn mẹ, chị em phải sinh sống ra sao…

Những chuyện như vậy hình như chưa ai kể, và cũng không thể kể hết…

Là thế hệ con cháu, tôi nhớ cô Nhã hay đến nhà tôi cả lúc bố tôi còn ở tù, lẫn khi ông được trả tự do lần thứ nhất năm 1980. Hình ảnh của cô là một người phụ nữ luôn luôn điềm đạm, vững chãi, luôn biết những việc phải làm để đối phó với mọi tình huống khó khăn. Có lẽ vì vậy mà cô là chỗ dựa tinh thần cho mẹ tôi, một người phụ nữ ít ra ngoài xã hội, chỉ biết chăm lo cho chồng con. Sau những lần gặp cô, nghe cô nói về tình hình quốc tế can thiệp như thế nào cho các văn nghệ sĩ ở trong tù, mẹ tôi đỡ lo hơn cho số phận của bố…

Cô kể trong hồi ký về những ngày bác Mai Thảo trốn ở nhà cô cho đến khi vượt biên thoát. Đọc thì biết là vậy. Nhưng phải ở lại Việt Nam trong giai đoạn đó thì mới hiểu hành động này nguy hiểm đến dường nào. Sự sợ hãi, nghi kị bao trùm khắp xã hội Việt Nam. Chỉ cần bị phác giác, cô có thể sẽ vào tù trở lại. Và các em sẽ ở nhà lại tiếp tục không cha, không mẹ. Biết như vậy mà cô vẫn làm. Nếu là một người phụ nữ thông thường, chắc chắn cô phải đặt sự an nguy của con mình lên trên tình bằng hữu. Nhưng cái logic này đã không xảy ra với cô Nhã Ca.

Tiếng công an gõ cửa ban đêm… Bác Mai Thảo trốn lên mái nhà… Đối phó với công an, rồi biết rằng chúng vào nhà không phải vì bác Mai Thảo, mà định bắt lầm con trai của cô Nhã vì trốn nghĩa vụ quân sự, nhưng thực ra em chưa đến tuổi… Chỉ có những người ở lại Việt Nam, mới có thể hiểu được những nỗi sợ hãi đó kinh hoàng, ám ảnh đến như thế nào. ..

Vào năm 1984, ông anh T. của tôi đang trốn nghĩa vụ quân sự. Vào rạng sáng ngày 2 tháng 5 1984- ngay sau khi cả nước vừa nghỉ 2 ngày lễ lớn là giải phóng Miền Nam và ngày QUốc Tế lao động- công an cũng đập cửa nhà tôi. Anh T. cũng trốn lên trần nhà, và nghĩ là đây là một đợt kiểm tra hộ khẩu như thường lệ. Nhưng không. Khoảng 20 tên công an, mật vụ tràn vào nhà, để bắt bố tôi đi lần thứ hai. Chúng lục tung từng góc nhà. Có lên cả trần nhà, nhưng ở một góc khác. Chỉ có phép lạ mới giải thích được tại sao chúng không bắt được anh T. Sáng hôm sau, khi công an rút đi (nhưng vẫn cài người lại theo dõi), anh T. leo ra khỏi mái nhà, nhảy sang nhà bên cạnh, rồi lấy xe đạp đi ra khỏi con ngõ như là một người hàng xóm. Một tuần sau,  anh T. vượt biên thoát. Trước khi đi, anh có chạy sang báo cho Cô Nhã biết là bố tôi bị bắt, và nhắn tin  cho mọi người ai là cô Nhã không bị bắt đợt này.

Những kinh nghiệm sinh tồn như vậy, có khi chỉ xảy ra một lần trong đời…

Là thế hệ thứ hai, lũ trẻ chúng tôi cũng chia ngọt sẻ bùi với nhau như thế hệ cha mẹ. Một trong những nguồn giúp đỡ quí báu, kịp thời đối với các gia đình văn nghệ sĩ Miền Nam trong giai đoạn khó khăn nhất là từ cô Cao Ngọc Phượng (nay là sư cô Chân Không) và Thầy Nhất Hạnh. Khi nhận được những thùng quà từ Pháp, chị T. của tôi là người đi liên lạc với những gia đình văn nghệ sĩ khác để chia sẻ sự giúp đỡ này. Đối với gia đình cô Nhã, gia đình tôi còn có phần thân tình hơn. Chị T. mỗi khi có dịp làm bánh từ bột mì “tiêu chuẩn lương thực” hàng tháng đều đem đến biếu cô. Hôm nào hơi rủng rỉnh tiền bạc, thì bánh có thêm trứng. Có một lần cô Nhã bị bệnh, chi Thanh làm bánh đến thăm. Cô ăn xong, hỏi bánh kỳ này sao ngon hơn lần trước? Chị T. cười, nói rằng bánh lần này có đến 2 trứng! Rồi mỗi khi trong thùng quà có hộp bút chì màu,  có sách tô màu, chị T. để dành cho các em cô Nhã, vì các em còn ở tuổi tiểu học.

Những câu chuyện “ở lại” như vậy, làm sao mà quên được…

Và ngày hôm nay… Thế hệ thứ hai chúng tôi vẫn có dịp gặp lại nhau ở Mỹ. Chúng tôi hay kể cho nhau nghe những chuyện vui của tháng ngày “ở lại”. S.M- cô trưởng nữ của cô Nhã- nhắc đến kỷ niệm đi “ bùm chui” (nhảy đầm chui) với anh T. Còn H.B thì nhớ những đêm họp mặt giao thừa Tây, có chị H. hát Happy New Year của ABBA, sao mà hay thế! Chúng tôi ít nhắc đến những khốn khó đã từng trải qua. Có lẽ con người sinh ra là để hướng về những điều tử tế, tốt lành. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi đã quên đi những chông gai mà tuổi thơ đã phải đối mặt và vượt qua. Những ngày tháng đã được cô Nhã ghi lại trong Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng…

Hình như đêm đen đã làm cho giây phút thưởng ngoạn ánh bình mình thêm phần ấm áp…

Tôi nhớ đến giọng hát của Trần Quang Lộc, trong ca khúc “Ở Lại Để Thấy”, bài hát mà chúng tôi rất thường ngân nga trong những tháng ngày “ở lại”:

“Ở Lại để thấy người ra đi rất nhiều

Ở lại để nghe những chuyện dài kể mãi không thôi

Ở lại để thấy những nếp nhăn trên nét mặt người

Ôi nếp nhăn nào tựa vết roi?

Ở lại để viết từng trang thư rất dài

Đêm dài bủa vây tiếng còi tàu dìu dắt tương lai

Ở lại để thấy những oán than trên khắp ngục tù

Ôi tiếng hát nào tựa bóng ma

Ở lại để thấy đường đi không lối về

Ly rượu bầm môi mắt bạn bè ngày hoắm sâu thêm

Ở lại để thấy những nỗi vui không đến tình cờ

Ôi nỗi vui nào cũng âu lo…”

 

Doãn Hưng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Thông thường khi nghe hai chữ “cô đơn” chúng ta liên tưởng đến trạng thái tinh thần yếm thế, tâm tư buồn bã, ngày tháng chán chường, thậm chí, cuộc đời trống rỗng. Có lẽ, vì ý nghĩa từ điển của từ vựng này; có lẽ, vì ảnh hưởng văn chương nghệ thuật; có lẽ vì chúng ta đã từ lâu tin như thế, mà không bao giờ đặt một nghi vấn nào. Đây là định nghĩa của “cô đơn” qua Bách thư toàn khoa Wikipedia: “Cô đơn là một trạng thái cảm xúc phức tạp và thường gây khó chịu, đáp ứng lại với sự cách ly xã hội. Cô đơn thường bao gồm cảm giác lo lắng về sự thiếu kết hợp hay thiếu giao tiếp với những cá nhân khác, cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, người ta có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi xung quanh có nhiều người. Nguyên nhân của sự cô đơn rất đa dạng, bao gồm các vấn đề về xã hội, tâm thần, tình cảm và các yếu tố thể chất.
Vào những ngày cuối năm 2023, khi mà người Mỹ bắt đầu chuẩn bị cho những bữa tiệc Giáng Sinh, năm mới, bàn tán chuyện mua sắm, thì chiến sự giữa Isarel và Hamas chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Trên vùng đất thánh của cả ba tôn giáo lớn, những kiếp người lầm than chỉ mong có một ngày hòa bình, một ngày không bom đạn. Cũng vào những ngày cuối năm 2023, người Mỹ bắt đầu nhìn thấy một viễn cảnh Ukraine bị bỏ rơi, phải chấp nhận đổi đất lấy hòa bình. Nhiều người Việt cho rằng Ukraine sắp là một Việt Nam Cộng Hòa khác, một đồng minh bị Mỹ bỏ rơi, nhưng sau một thời gian có thể nhanh hơn nhiều.
Vào ngày 6 Tháng 12, giới truyền thông Mỹ đồng loạt đưa tin Taylor Swift, nữ ca nhạc sĩ đầy tài năng, được tạp chí Time vinh danh là “Nhân Vật Của Năm 2023” (Person of The Year). Đây là lần đầu tiên một ca nhạc sĩ được bình chọn danh hiệu giá trị này, càng nhấn mạnh thêm sự thành công và sức ảnh hưởng của cô gái hát nhạc pop-đồng quê. Trước đây, nhiều nhân vật được Time chọn từ năm 1927 là các tổng thống Hoa Kỳ, những nhà hoạt động chính trị lỗi lạc.
Bốn câu thơ này được bố tôi (nhà văn Doãn Quốc Sỹ) ghi lại như một giai thoại văn học, làm lời tựa cho tác phẩm Mình Lại Soi Mình. Bố tôi kể rằng khoảng năm 1984, phong trào vượt biên đang rầm rộ. Một người bạn mới gặp đó, mà hôm sau đã vượt biên rồi! Vào một ngày đẹp trời, bố tôi đạp xe từ Sài Gòn qua Làng Báo Chí bên kia cầu xa lộ để thăm chú Nguyễn Đình Toàn. Đến giữa cầu thì thấy chú đang đạp xe theo chiều ngược lại, cũng định đến thăm mình ở căn nhà hẻm Thành Thái. Hai người bạn gặp nhau giữa cầu. Có lẽ chú Toàn đã nhìn những cánh đồng lúa bên Thủ Thiêm, tức cảnh sinh tình, ngẫu hứng làm ra bốn câu thơ này.
Hôm đó, một chàng đương từ Sài Gòn đạp xe tới thăm bạn ở Làng Báo Chí bên kia cầu xa lộ. Chàng vừa đạp xe tới cầu thì gặp bạn cũng đương từ bên kia cầu phóng sang dự định về Sài Gòn thăm mình...
Có một người sống trong thành phố, bận rộn, tranh đấu, xông pha, lăn lộn giữa sự phức tạp như một sinh trùng bị mắc lưới nhện vẫn phải vùng vẫy để sống, để chờ ngày bị ăn thịt. Một hôm, ông ta đi du lịch, thấy một phong cảnh đẹp đến mức lặng người, cảm thấy siêu thoát, nhận ra đạo lý của mục tiêu tại sao con người tồn tại. Nhưng vẫn phải trở về phố cũ, y như Lưu Nguyễn phải trở về làng cũ vì những lý do chính xác, vì lẽ phải của những bổn phận làm người. Ông vẽ lại phong cảnh đó trên một vách tường lớn. Mỗi khi đời giông bão, mỗi khi hồn âm u, mỗi khi trí khổ não, ông đến trước bức tranh, nhìn ngắm, ngẫm nghĩ để tìm thấy sự thanh thản, sở hữu cảm giác bình an. Ông nghe được tiếng hát “chiều nay vang lừng trên sóng.” Ông thấy được “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.” Hồn ông “lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan.” Những giờ phút tĩnh lặng đó, tâm trí ông “Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quên … là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.