Lưu An, người ở Hàng Châu, có người yêu là Lã thị, thường kéo nhau đến những chỗ linh thiêng, thốt lời thề hứa keo sơn, ngàn hôm gắn bó.
Ngày nọ, Lã thị đang ở trước sân đón gió chiều, bất chợt thấy một người đàn ông buôn mỹ phẩm đi ngang, bèn kêu lại mà nói rằng:
- Nói gần nói xa, chẳng bằng mở lòng ra mà nói thật. Chẳng hay đám đồ làm đẹp này, dzởm hay zin"
Người ấy cười cười đáp:
- Duyên dáng như nàng, thì bất kể đồ dzởm hay zin, vẫn… tột cùng công suất.
Lã thị, từ ngày biết thương Lưu An đến giờ, chỉ nghe ba chữ: Nhớ thương em ngày này qua tháng khác, thét rồi chẳng thấy ép phê gì hết cả. Nay đụng phải kiểu này, bỗng cảm như ruột dạ xôn xao. Thẹn thùng nói:
- Thiếp là hoa đồng cỏ nội. Luôn biết phận của mình. Hà cớ chi chàng lại khen nhiều đến thế"
Người đàn ông nghe đến chữ thiếp, lại thấy người con gái trước mắt mình cứ nắm tà áo mà vo, liền thì thào tự nhủ:
- Xuân bất tái lai. Cơ hội này mà không tận dụng tới nơi, thì thiệt không đáng làm đại trượng phu, xấu danh người quân tử.
Nghĩ vậy, bèn tha thiết nói:
- Chốn thị thành thơm tùm lum tá lả, nhưng là đồ ngoại nhập. Còn nơi thôn dã thâm sơn, thì đúng là hạt ngọc của trời. Chỉ cần lấy mũi đặt vô, thì lẽ hơn thua đã bày ra trước mắt.
Rồi đắm đuối nói:
- Chỉ có những người nào hiểu ta mới thấy thích ta thôi. Vì vậy, đừng mong mỏi gì thêm ở người khác. Nay duyên trời xui khiến mình gặp nhau đây, thì có đâu lại… đôi ngả chia ly cho lòng thêm đau đớn"
Qua ngày sau, Lưu An đang ngồi ăn cháo hành, chợt có Vương Nhu là bạn nối khố chạy vội đến. Hớt hãi nói rằng:
- Thiệt là xúi quẩy. Lã thị đã ôm thuyền sang bến khác. Chết đệ mất thôi!
Lưu An lặng người đi một chút, rồi gắng gượng đáp:
- Mất vợ chưa cưới hổng chừng đó là phúc phần của đệ…
Vương Nhu ngạc nhiên đến cùng cực. Trố mắt hỏi:
- Vợ bỏ đã đau. Vợ chưa cưới bỏ đi còn đau hơn nữa. Sao đệ lại cho là phúc phần. Chẳng bậy lắm ư"
An bình tĩnh đáp:
- Thói thường, khi người yêu bỏ đi thì phía bên kia thường tìm đến rượu. Nay đệ đi buôn rượu, thì tiền bạc cao sang sẽ về trong sớm tối.
Nhu. Từ nào tới giờ chỉ thấy thất tình rồi làm bậy. Chứ chưa hề nghe nhờ phụ bạc mà khá lên bao giờ, bèn chụp vội đôi vai. Thảng thốt nói:
- Thương trường là chiến trường. Đệ suy nghĩ kỹ chưa"
An chắc nịch đáp:
- Đen tình thì đỏ bạc. Đó là chân lý!
Từ đó, An chí thú làm ăn, và nhất quyết để chuyện yêu đương ra ngoài sổ sách, nên chuyện bán buôn mỗi ngày một phát đạt, khiến nhiều nơi đánh tiếng, muốn tính chuyện phu thê, nhưng An không dính với đám nào hết cả. Đã vậy còn nói với người mai mối rằng:
- Tiền bạc trong túi của mình, nhiều khi còn biến mất. Hà huống vợ. Lẽ nào suốt đời mà giữ được hay sao"
Ba năm sau. Gặp lúc An đang bên hòn non bộ cho cá ăn, bất chợt thấy Lã thị bồng con đến, mà nói rằng:
- Thiếp trong một phút yếu lòng, đã hủy đi mối tình của đôi ta. Nay lòng mong nghĩ lại, mới thấy… tình đầu đúng là tình cuối, nên ước vọng quay về, nối lại đoạn tơ xưa. Chẳng hay ý chàng… nô hay yét"
An ngẫm nghĩ một chút, rồi nặng nhọc đáp:
- Thấy người hoạn nạn mà không cứu là cái hạng bất nhân. Thấy người yêu khổ cực mà không cứu là cái đồ bất nghĩa. Ta thà làm kẻ bất nhân. Chớ bất nghĩa thì dứt khoát không thể nào làm được.
Đoạn, chấp nhận cho hai mẹ con của Lã thị vào nhà sinh sống. Vương Nhu nghe vậy, mới chạy tới mà nói rằng:
- Châu về hiệp phố. Rốt lại đoàn viên. Thiệt là may mắn!
An thở ra một cái, rồi trầm ngâm đáp:
- Được một lúc hai mẹ con, thì họa phúc thiệt hổng biết đâu mà nói!
Từ khi được Lưu An đưa bàn tay cứu vớt, Lã thị hết sức chu toàn trách nhiệm. Ngày nóng thì nấu chè, trời lạnh thì gà ác hầm với thuốc bắc, thảng hoặc Lưu An bị dị ứng phấn hoa thì lo lấy lá chanh mà xông cho đã, khiến cuộc sống lứa đôi mới đầu hơi nguội, sau từ từ mà ấm hẳn ra, đến nay thì nóng hổng biết bao nhiêu mà nói.
Còn con của Lã thị là Điền Khuông, hiền lành hết mực, lại chăm chút đến sở thích của Lưu An. Khi xếp cờ, lúc châm rượu, khi đấm bóp dọc lưng, khiến An cảm thấy chốn tim gan vô vàn ấm áp. Đã vậy trời cho Khuông một cái lưỡi thần sầu. Chỉ cần nếm vô là biết rượu can chừng mấy độ, nên tùy đó mà gia giảm gạo, men, khiến mối mung mỗi ngày càng đông đúc. Chẳng những doanh số vụt tăng, mà tiếng thơm cũng lan dần sang nơi khác.
Vương Nhu thấy công việc ăn làm phát đạt, mới mát ruột mát gan, mà nói với An rằng:
- Nuôi con người ta tưởng là họa, té ra là phúc. Thiệt là quá đã!
An lặng lẽ nhìn ra ngoài vườn, bất chợt thấy lá rơi. Rùng mình đáp:
- Theo lẽ thường thì không có cái gì xấu hết, cũng không có cái gì tốt hết. Bây giờ cái tốt đã lộ rồi - thì cái xấu kia - Hổng biết lúc nào mới nhào ra phang tới"
Rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, mới đó mà Khuông đã mười chín tuổi. Trong thì giúp Lưu An chu toàn công việc, còn bên ngoài lại hết mực khiêm cung, khiến bao chủ quán muốn xui gia cho mát trời ông địa, nhưng Khuông vẫn kiên lòng chưa chấm một ai. Đã vậy còn nói với mẹ rằng:
- Cưới hỏi gì mà gấp thế" Lửa có liếm đến mép áo đâu mà sợ. Vả lại, đời thì mênh mông, còn tri âm đâu phải dzớt ngay mà có được.
Lã thị nhìn con, chắc lưỡi một cái, rồi cẩn thận nói:
- Đành là vậy, nhưng con cũng nên nghĩ đến chuyện hôn nhân. Chớ không thể lắc hoài ra như thế!
Khuông lặng người đi một chút, rồi dáo dác nhìn quanh. Khi biết chắc là chẳng có ai, mới mau mắn xổ tung bầu tâm sự:
- Mẹ nghĩ coi. Cha đã bỏ hai mẹ con mình, may nhờ dượng An rộng lòng cứu vớt. Chẳng những với mẹ xẻ nồng ấp lạnh, mà với con cũng dạy nghề để kiếm kế sinh nhai. Công ơn đó bao giờ mới đáp được" Con lại nghĩ: Nếu bây giờ tính chuyện phu thê, thì ai sẽ thay mặt cha trong cái ngày hôn lễ" Chắc chắn phải nhờ dượng. Nhưng có bao giờ mẹ nghĩ đến cảm xúc của dượng chưa" Một người đã cướp đi người yêu của mình. Nay lại phải đứng ra làm chứng cho con của tình địch, thì còn vui được hay sao"
Lã thị ú ớ đáp:
- Nhưng lang quân là người rộng lượng. Bây giờ chỉ là… rộng thêm chút nữa. Sao lại phải lo"
Khuông lắc lắc một hơi mấy cái, rồi mạnh dạn nói:
- Dượng cũng là người, mà người thì có giới hạn. Con thật không dám vượt qua giới hạn này. E chết mẹ đi chăng"
Nay nói về họ Dương ở làng bên cạnh, sống bằng nghề nấu rượu, truyền đến đời của Dương ông đã là đời thứ năm, nhưng doanh thu mỗi ngày một sút. Dương lấy làm lạ, liền gọi quản gia đến mà hỏi rằng:
- Rượu chế biến từ nhà ta cùng một công thức, một phương pháp, tóm lại là không có gì thay đổi, mà lóng rày bán sụt, là cớ làm sao"
Quản gia đưa tay lên đầu gãi gãi mấy cái, rồi sợ hãi thưa:
- Tôi đã đích thân kiểm soát. Từ nguyên liệu đến độ thành phẩm. Không khác một mảy may. Vậy bán sụt là vì duyên cớ khác.
Dương ông hứ một tiếng, rồi trợn mắt nói:
- Cứ mười lít rượu mà dân nhậu uống vào, thì hết chín là của họ nhà ta. Lít còn lại chia đều cho bá tánh. Nay gần như ngược lại, mà ngươi vẫn chưa tìm ra nguyên cớ. Chẳng dở lắm ư"
Quản gia cúi mặt nhìn xuống đất. Run run đáp:
- Tôi có một kế sách, có thể dành lại ngôi vị, nhưng sợ đụng đến tiểu thư, nên ngại ngần chưa dám!
Dương ông bỗng dưng bị hút vào câu chuyện, nên không giữ được lòng. Gấp rút nói:
- Nữ sanh ngoại tộc. Con gái là con của người ta, nhưng… rượu là của mình. Chỉ cần chiếm lại địa vị độc tôn, thì cho dẫu có là… vợ con cũng nhào vô chơi láng.
Quản gia nghe vậy, bỗng nhẹ cả tâm tư. Lẹ miệng nói:
- Con của Lã thị có tài nêm nếm, nên cái hậu của rượu không thể nào chê được, khiến rượu của Lưu An được thiên hạ lùng mua, chơi dài cho tới bến. Nếu ta quyến dụ được Điền Khuông - về ở với mình - thì tâm nguyện của chủ nhân ắt sẽ hoàn thành trong sớm tối.
Rồi ghé miệng vào tai của Dương ông, mà nói rằng:
- Tiểu thư chẳng những đẹp, mà cặp mắt thật là ướt át. Nếu chịu… đá với Khuông, thì coi như sẽ chôn chặt con tim trong bóp đầm đó vậy.
Dương ông mắt bỗng rực sáng lên, hào hứng nói:
- Lấy chồng theo kiểu báo hiếu, chỉ là chuyện nhỏ. Ta chỉ lo Điền Khuông nghe mẹ, rồi dùng dằng không quyết, thì trước là làm trò cười cho thiên hạ, sau chết mẹ duyên con, thì hổng biết phải nói làm sao đây nữa!
Quản gia nhìn xuống bếp, thấy Dương thị đang chiên cá lòng tong, liền nhỏ giọng nói:
- Muốn trói buộc người ta, thì cách hay nhất là buộc bằng tình cảm. Nay chủ nhân nhá đèn với Lã thị, rồi hứa lập phòng hai, thì… rượu mẹ rượu con sẽ về ta tất cả.