Hôm nay,  

Hồi Ký: Tôi Tìm Tự Do (kỳ 73)

25/09/200700:00:00(Xem: 2669)

Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do.... Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách "mưu sinh, thoát hiểm" giữa hàng chục "lằn tên đường đạn", nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.

*

(Tiếp theo...)

Trên chuyến xe đi từ Đông Hà về Huế, một mặt chúng tôi đóng vai ngây ngô, khờ dại để cho hai tên công an mất cảnh giác, coi thường, mặt khác, tôi tìm cách "cấy" vào đầu óc tên công an Nùng Trí Vân một mối liên hệ mơ hồ giữa tôi và tên trưởng ty công an Quảng Trị. Cả hai điều này đều ít nhiều thành công. Nhưng điều quan trọng khiến tôi điên đầu nhất là làm sao tôi có thể chạy trốn khi cả ba chúng tôi đều bị còng tay và bị buộc chung một sợi dây dù" Vì vậy, để khi chạy trốn, đỡ nguy hiểm nhất, trước hết, tôi phải tìm cách thuyết phục hai tên công an cởi dây trói và tháo còng cho chúng tôi. Muốn làm được điều này, tôi phải tạo cho hai tên công an thực sự tin tưởng vào lòng "ăn năn, hối cải, sẵn sàng chấp nhận để cho nhà nước cải tạo" của chúng tôi. Vì thế, tôi phải làm bộ "ngây thơ và dại dột lo ngại" trước viễn ảnh chúng tôi bị tù mọt gông, hoặc bị tử hình vì tội vượt biên, một khi chúng tôi về đến lao Thừa Phủ.
Quay sang tên Vân, tôi giả bộ băn khoăn hỏi:
- Thưa cán bộ, cán bố là người từng trải, có nhiều kinh nghiệm về tù vượt biên nên tôi muốn hỏi thật cán bộ điều này...
Tên Vân nhìn tôi gật đầu:
- Anh nói đi chớ.
- Cán bộ có biết, tội vượt biên của chúng tôi sẽ bị xử bắn hay bị xử tù chung thân"
Tên Vân phì cười lắc đầu. Tôi giả vờ sợ sệt nhìn y ra vẻ ngạc nhiên, không hiểu. Y nhìn tôi có vẻ thương hại:
- Tội vượt biên mà bị bắn thì cả nước này bị bắn hết sao chớ.
- Vậy tụi tôi có bị tù chung thân không cán bộ"
- Đảng và nhà nước dại gì mà bỏ tù chung thân mấy người vượt biên chớ. Bỏ tù người ta như vậy, lấy ai lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa chớ.
Tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, mừng rỡ, nhưng trong ánh mắt vẫn đầy lo ngại, không hoàn toàn tin tưởng. Tên Vân lại lắc đầu thương hại:
- Tôi nói thiệt chớ, mấy anh thuộc loại nhát như thỏ đế, ăn trắng mặc trơn quen rồi. Đã chẳng hiểu gì về rừng núi, đường sá thì chẳng biết, lại sợ hãi đủ thứ, vậy mà cũng đòi cắt rừng vượt biên! Các anh là người thì sợ hổ sợ báo, sợ rắn rết... thì cũng được đi vì những thứ đó thì người nào mà chẳng sợ. Đằng này mấy anh sợ cả cóc nhái, đỉa vắt, gai góc, rồi lại còn mê tín dị đoan sợ cả ma quỷ thì làm sao mà vượt biên cho nổi được chớ.
Nghe tên Vân nhắc đến đó, tôi cười thầm, nhớ đến kế hoạch "đóng kịch" của chúng tôi trong những tuần lễ bị giam giữ ở Đông Hà. Thời gian đó, mỗi khi đi lao động ở bên ngoài, chúng tôi đều bàn nhau tìm cách đóng kịch giống hệt như mấy thanh niên sinh ra lớn lên ở thành phố, nay lần đầu thấy cảnh rừng rú nên gặp cái gì cũng sợ hãi "eo ôi".  Được cái may mắn là cả T và H đều là người sinh ra và lớn lên ở Sàigòn, được nuôi trưởng trong nhung lụa, nên những bỡ ngỡ, sợ hãi của T và H là hoàn toàn trung thực. Nhất là H, một nữ sinh Marie Curie, chưa từng trông thấy cây lúa bao giờ, mỗi khi làm cỏ lúa, lại nhổ cả lúa thay vì nhổ cỏ, nên khi trông thấy ếch, nhái, vắt đỉa,... H đều la hét sợ hãi nghe rất rùng rợn. Nhờ vậy những "giả bộ sợ hãi" của tôi nếu có sơ hở, cũng không bị mấy tên công an, bộ đội phát hiện. Cũng trong thời gian đi lao động, mỗi khi có dịp, chúng tôi luôn giả bộ hỏi những câu ngây ngô như "trong rừng có ma không", "chuyện người rừng bắt mình ăn thịt có đúng không", "chuyện quỷ nhập tràng có thật không"... Tất cả những câu hỏi ngây ngô này đã khiến cho công an, bộ đội ở Đông Hà tin tưởng, chúng tôi chỉ là những "thanh niên dại dột" nghe ai "xúi dại" mà đi vượt biên. Nhờ vậy, tôi đã che giấu được chân tướng của mình.
Nghe tên Vân tỏ ra "thương hại" như vậy, tôi tỏ vẻ ngượng ngùng:
- Thú thực với cán bộ, nghe người ta nói vượt biên dễ ợt, nên tụi tôi dại dột nghe theo, đâu có biết trên đường vượt biên lại gặp phải những thứ khủng khiếp đó.
Tiếp tục "cấy" vào óc tên Vân những ảo tưởng ngây thơ về mình, tôi hỏi tiếp:
- Vậy theo cán bộ, tội vượt biên của tụi tôi sẽ bị tù mấy năm"
Vân nheo mắt:
- Cái đó còn tuỳ theo sự thành khẩn ăn năn khai báo của các anh.
Tôi nhanh nhẩu;
- Thì cán bộ đã biết rồi đó, chúng tôi đã thành khẩn ăn năn, khai báo ngay từ đầu rồi còn gì...
- Mấy anh khi bị bắt thì anh nào chả nói vậy. Nhưng chúng tôi có tin các anh thành khẩn khai báo hay không mới là chuyện đáng nói. Nếu tin thì các anh chỉ ở tù khoảng nửa năm đến 2 năm là tối đa. Còn nếu không tin thì các anh sẽ bị tù mọt gông.
Tôi tỏ vẻ mãn nguyện và tin tưởng vào sự thành khẩn khai báo của mình:
- Cán bộ nói vậy thì tôi mừng quá. Tôi cứ tưởng mình sẽ bị tù chung thân, chứ chỉ có nửa năm đến hai năm tù nếu tôi thành khẩn ăn năn, thì tôi rất an tâm cải tạo.... để làm lại cuộc đời.
Tôi không biết lúc đó, tên Vân tin tưởng vào "thiện chí cải tạo" của tôi tới mức nào, nhưng tôi nghĩ, ít nhiều tôi đã thành công cho tên Vân hiểu, tôi sẵn sàng vui vẻ vào tù ngồi bóc lịch một hai năm để "chuộc tội vượt biên" mà tôi đã phạm. Như vậy trong đầu óc tên Vân sẽ không mảy may nghi ngờ đến chuyện tôi sẽ chạy trốn trên đường giải giao từ Đông Hà về Huế. Một khi y không nghi ngờ, y sẽ lơ là cảnh giác, tạo cho tôi nhiều cơ hội thoát thân.
Điều khó đối với tôi bây giờ là làm sao tháo được chiếc còng và sợi dây dù trói buộc cả ba đứa chúng tôi. Dĩ nhiên, đòi tên Vân tháo cả hai cùng lúc là điều không tưởng. Muốn thành công, tôi phải đánh từng bước. Bước đầu tiên là sợi dây dù. Nếu tên Vân tháo sợi dây dù, gặp điều kiện thuận lợi, cho dù tay bị còng, tôi vẫn có thể liều mạng bỏ chạy.
Sau hồi suy nghĩ thật lung, tôi thấy muốn tháo sợi dây dù chỉ có hai cách. Một là thuyết phục tên Vân. Hai là chờ đến bến xe Quảng Trị, xe phải đỗ lại cho khách lên xuống, mua bán, ăn uống,... ba đứa chúng tôi sẽ đòi đi tiêu, đi tiểu. Khi đó, bắt buộc tên Vân phải cởi trói sợi dây dù, và tôi phải tìm cách trốn thoát bằng mọi giá ngay tại bến xe của thị xã Quảng Trị. Quyết tâm này của tôi bắt nguồn từ câu chuyện khá dài dòng với ông HK. Chuyện đó đầu đuôi như sau.


Trong thời gian còn bị giam ở Đông Hà, ông HK đã cho tôi biết, không sớm thì muộn, công an biên phòng Đông Hà sẽ giải giao tất cả những tù chính trị, vượt biên về Huế. Còn tù hình sự, tội nhẹ sẽ được giải quyết ngay tại chỗ, còn tội nặng sẽ được giải về nhà tù của tỉnh Quảng Trị, hoặc đưa về Huế. Riêng trường hợp của ông HK, vì có quan hệ đặc biệt thế nào đó, nên tuy ông đã ở tù tại Đông Hà hơn nửa năm, chúng vẫn chưa có quyết định giải ông đi đâu.
Trong tù, ông HK là người thẳng thắn, cương trực, xứng đáng với câu "uy vũ bất năng khuất". Ông cũng rất thương tôi và thường bảo tôi kể chuyện cho ông nghe. Mọi người thì thích nghe truyện Chưởng, nhưng ông lại khoái nghe truyện Tam Quốc, nên những khi kể truyện Tam Quốc, chỉ có tôi và ông. Khác với những người khác, nghe kể thì say sưa lắng nghe, ông lại hay cắt ngang, hỏi tới hỏi lui rồi lớn tiếng chửi bới hay ca ngợi nhân vật tôi vừa kể.
Biết trước mình sẽ bị giải về Huế, nên một hôm, sau khi kể cho ông nghe đoạn Trương Phi đại náo cầu Trường Bản, tôi thú thực với ông:
- Chú HK, nếu tôi bị tụi nó giải giao về Huế, có cách nào trốn được không, chú"
Ông HK trầm ngâm một lúc rồi bảo:
- Thường khi giải tù từ đây về Huế, tụi nó đều còng tay và trói tù lại thành từng chùm. Vì vậy, cơ hội duy nhất chú có thể chạy trốn là ở bến xe Quảng Trị. Chú mày có biết tại sao không"
Không chờ tôi trả lời, ông HK tiếp:
- Ở bến xe bao giờ cũng đông người qua lại. Đó là cái dễ thứ nhất. Cái dễ thứ hai là khi tới bến xe Quảng Trị, bao giờ hành khách trên xe cũng phải xuống ăn uống, vệ sinh cá nhân, đổi xe đi các nơi, nên rất lộn xộn. Vì vậy, khi đến đó, tao nghĩ tốt nhất chú mày nên giả vờ xin đi cầu...
Tôi ngạc nhiên:
- Xin đi cầu"
Ông HK gật đầu:
- Nếu đến đó chú mày xin đi cầu, tụi nó phải cho người giải chú mày đến nhà cầu, rồi cởi trói, cởi còng cho chú mày đi.
- Nhưng đi cầu thì làm sao mà trốn"
- Khi chúng nó cho chú mày đi cầu, thì chú mày đừng đi cầu.
Tôi ngạc nhiên:
- Ủa, sao vậy"
Ông HK mỉm cười:
- Thì chú mày vô trong nhà cầu, đóng cửa lại rồi đứng im đó chờ, chớ vô đó mà đi cầu thì làm sao trốn được. Thằng công an đứng ngoài chờ lúc lâu không thấy động tĩnh gì, thì việc đầu tiên nó phải làm là gọi. Nghe nó gọi thì chú mày đừng trả lời. Gọi một lần, hai lần, ba lần,... không thấy chú mày trả lời là nó phải đẩy cửa, thò đầu vô. Khi đó chú mày chỉ cần bất thình lình, dùng hết sức đóng cánh cửa lại thật mạnh hay đập cho nó một cú, thì nó có khoẻ như voi, cũng phải gục.
Tôi thầm phục mưu kế của ông HK và tôi tin mình có thể thực hiện được mưu kế đó. Dĩ nhiên, mưu kế của ông tuy không hoàn toàn hoàn hảo, nhưng tôi phải thừa nhận là có thể thực hiện được. Vả lại, xưa nay có mưu kế vượt ngục nào hoàn hảo. Trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, tôi phải chấp nhận chọn cho mình con đường ít rủi ro nhất, mà mình có thể thực hiện. Nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, cả ba chúng tôi đều ngồi trên xe đò chạy về thị xã Quảng Trị, và cơ hội duy nhất giúp tôi có thể chạy trốn đang chờ tôi ở phía trước.
Ngay sau khi nghe mưu kế của ông HK, điều khiến tôi lo ngại là T và H. Làm sao tôi có thể thuyết phục được cả T và H cùng trốn với tôi" Nếu tôi thuyết phục được T và H đồng ý cùng trốn thì chúng tôi sẽ phải trốn như thế nào" Chắc chắn cả ba chúng tôi không thể nào cùng trốn theo mưu kế của ông HK được. Tôi có đem lời ông HK tâm tình, kể cho T và H nghe nhân dịp chúng tôi đi lao động ở ngoài rừng. Nghe tôi nói, cả T và H đều hoảng hốt. H nói với tôi, giọng sợ hãi: "Cậu Chí, chúng cháu không dám trốn đâu. Cậu trốn một mình cậu đi. Chúng cháu vượt biên rồi bị bắt mấy lần nên chúng cháu biết, chúng cháu chỉ bị tù một năm là cùng thôi. Biết tin chúng cháu bị bắt, thế nào mẹ cháu cũng tìm đường "lo lót", nên sớm muôn gì tụi cháu cũng được thả thôi, không lâu đâu. Còn cậu, nếu gặp cơ hội thì cậu cứ trốn đi, vì cậu ở lại, trước sau gì chúng cũng sẽ biết cậu và chúng sẽ giết cậu..."
Vào khoảng xế trưa hôm đó, xe chạy vô bến xe Quảng Trị. Trái ngược với lời kể của ông HK, bến xe rất vắng vẻ. Khoảng bốn, năm chiếc xe đậu lác đác trên một bãi đất rộng và trống mênh mông. Một dẫy lán siêu vẹo với đủ loại hàng quán sơ sài nằm ngang với khu nhà gạch tiêu điều, vừa làm văn phòng, phòng bán vé và cửa hàng ăn. Phía xa xa, cuối bãi đậu xe là một dẫy nhà cầu mái tranh, tường đất, vô cùng tiêu điều, trống trải. Nhìn quang cảnh vắng vẻ và trống trải mênh mông đó, tôi thấy ngay, tôi không tài nào trốn thoát theo kế hoạch của ông HK. Tôi biết chắc, cho dù tôi có chui vô được nhà cầu đi nữa thì với sự trống trải cả bốn phía như vậy làm sao tôi có thể đánh lừa được tên công an có trách nhiệm canh giữ tôi. Và cho dù tôi có đánh gục tên công an ngay cạnh nhà cầu đi nữa, tôi cũng chẳng thể nào chạy trốn giữa bãi đất bốn bề mênh mông trống vắng phẳng lỳ, mà không bị tên công an còn lại phát hiện.
Đứng giữa bãi xe, tôi băn khoăn vô cùng. Tôi không biết mình có nên xin đi cầu để rồi liều mạng thực hiện mưu kế của ông HK, hay nên chờ đợi cơ hội thứ hai, khi xe về đến thành phố Huế. Và tôi cũng không biết khi về đến Huế, liệu tôi có gặp được cơ hội thứ hai, hay tình thế còn bi đát, nguy hiểm hơn ở đây" Giữa lúc tôi đang lưỡng lự như vậy thì tên Vân cầm giây trói kéo chúng tôi đi đến một chiếc xe đò dài hơn, mới hơn, có dòng chữ Quảng Trị - Huế. Tên Vân leo lên xe đầu tiên. Ba đứa chúng tôi lục tục leo theo sau.
Cũng giống như xe đò từ Đông Hà đi Quảng Trị, tên công an cùng đi với chúng tôi đã ngồi chễm trệ trên chiếc ghế duy nhất phía trước, ngay bên phải tài xế. Ba đứa chúng tôi ngồi vào hàng ghế ngay sau tài xế. Tên Vân ngồi vào dẫy ghế bên phải, đã có hai người ngồi. Riêng hàng ghế của chúng tôi tuy có 4 chỗ ngồi, nhưng chỉ có 3 đứa chúng tôi.
Khác với chuyến xe từ Đông Hà ra Quảng Trị, chuyến xe từ Quảng Trị đi Huế đông khách hơn, và hầu hết hành khách trên xe đều là người Kinh. Ngay khi thấy ba người chúng tôi bước lên xe với còng tay và dây trói, thái độ của mọi người trong xe cũng khác. Nếu hành khách trên xe Đông Hà Quảng Trị thờ ơ lạnh nhạt, thì trái lại, tất cả hành khách trên xe Quảng Trị Huế đều công khai tỏ thái độ quan tâm đến chúng tôi, và ác cảm đối với hai tên công an. Tôi nghe nhiều người ồ lên, nhiều tiếng nói xôn xao, hai ba thanh niên ở phía dưới huýt sáo, kèm theo vài tiếng chửi thề. Thái độ của hai tên công an cũng khác. Trên chuyến xe Đông Hà đi Quảng Trị, chúng tỏ vẻ hống hách, thì trái lại, trên chuyến xe Quảng Trị Huế, chúng có vẻ nhút nhát, thụ động và chịu đựng.
Chúng tôi ngồi vừa yên chỗ thì xe từ từ chuyển bánh rời khỏi bến xe Quảng Trị. Nhìn ra bên ngoài, tôi thở dài, tiếc cho một "cơ hội có thể trốn" mà mình vừa đánh mất, và lo lắng, không biết từ Quảng Trị về Huế, tôi có còn gặp cơ hội nào khác để trốn thoát hay không"... (Còn tiếp...)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.