Cái đó còn tùy ở định nghĩa ‘vĩnh viễn’ và ‘bình thường’.
Douglas "Pete" Peterson không là một chính khách Mỹ có ác cảm với Việt Nam. Ngược lại, ông là vị Đại sứ Mỹ đầu tiên nhậm chức ở Hà Nội sau khi hai nước tái lập quan hệ ngoại giao năm 1995, và cùng với bà vợ - một người Úc gốc Việt - đã vận động rất nhiều cho việc bình thường hoá toàn diện quan hệ giữa hai nước, vận động bên phía Hoa Kỳ hơn là phía Hà Nội.
Nhìn theo khiá cạnh nào đó, ông là một chính khách Dân chủ "thân Hà Nội". Tuần qua, trở về Việt Nam tham dự một khoá hội thảo về "20 năm đổi mới", cựu Đại sứ Pete Peterson đã phát biểu rằng thành quả "đổi mới" đáng lẽ còn rộng lớn và nhanh hơn nếu lãnh đạo Hà Nội không quá sợ thay đổi.
Hai thí dụ ông nêu ra về phản ứng nhút nhát để hụt cơ hội là đáng lẽ nhân vụ khủng hoảng Đông Á năm 1997 mà Hà Nội cải cách mạnh hơn thì đã thu hút được đầu tư nước ngoài nhiều hơn và đáng lẽ Hà Nội ký kết Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ sớm hơn thì đã giúp cho việc thương thảo với Hoa Kỳ về việc gia nhập Tổ chức.
"Nhà ngoại giao là người có nhiệm vụ nói dối cho quốc gia của mình".
Định nghĩa ấy có thể đúng cho Đại sứ Pete Peterson. Nhưng bây giờ là phút ông nói thật, với tư cách riêng. Vấn đề là lãnh đạo Hà Nội vốn dĩ đa nghi lại học bài quá chậm nên lời nói thật lần này của ông Peterson chưa chắc đã công hiệu! Vả lại, nhìn từ giác độ của nhà cầm quyền thì hai cơ hội bị hụt nói trên chỉ là sự thất thâu cho người dân, chứ vẫn là bội thu cho nhà cầm quyền. Hay ít ra, những người cầm con dấu.
Ngày nay, Việt Nam đang trên đường bình thường hoá "toàn diện" và "vĩnh viễn" với Hoa Kỳ, nên giới lãnh đạo đều đổi thành họ Hứa. Nói gì cũng gật!
Sau khi ký kết thỏa ước song phương Mỹ-Việt về WTO vào cuối tháng Năm, Việt Nam đang vận động Hoa Kỳ mở cửa ải cuối là chấp nhận cho Việt Nam quy chế mậu dịch bình thường, một cách vĩnh viễn, thay vì cứ phải tái xét hàng năm theo đề nghị bên Hành pháp.
Thứ Ba 13 tuần qua, lưỡng viện Quốc hội Mỹ đã đề nghị chấm dứt việc áp dụng Tu chính án Jackson -Vanik trong khuôn khổ Đạo luật Ngoại thương 1974, để Việt Nam được quy chế mậu dịch bình thường một cách vĩnh viễn, gọi là PNTR. Đây là điều kiện cần thiết cho Việt Nam gia nhập WTO, vì luật lệ WTO không có điều khoản nào về chuyện tái tục hàng năm giữa hai hội viên, một sáng kiến riêng của Quốc hội Hoa Kỳ, liên hệ đến những vấn đề nằm ngoài ngoại thương mậu dịch.
Với việc chấp nhận quy chế NPTR, hai nước thực sự bình thường hoá quan hệ một cách vĩnh viễn, nếu chưa toàn diện thì cũng đa diện. Từ khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam đã mất 30 năm mới lăn đến chỗ đó. Và từ khi tái lập bang giao với Hoa Kỳ dưới triều đại của một Tổng thống Mỹ sẵn sàng bỏ qua mọi chuyện cho Hà Nội để người ta bỏ qua lập trường của ông trong cuộc chiến Việt Nam, Hà Nội đã mất thêm 10 năm làm ông Peterson thấy tiếc.
Tuy nhiên, điều lấn cấn tại đây là chính quyền Việt Nam chưa bình thường hoá quan hệ với chính người dân trong nước. Và trong quan hệ quốc gia với quốc gia thì không có gì là vĩnh viễn trường cửu cả.
Chúng ta phải thông cảm với phản ứng của nhiều người, khi cho rằng Hoa Kỳ đã bình thường hoá quan hệ với một chính quyền bất thường.
Chỉ có những người bất thường mới phủ nhận sự thể ấy.
Nếu có người muốn tranh đấu để đặt thêm điều kiện khiến chế độ hiện hành của Việt Nam phải tôn trọng những quy tắc bình thường và văn minh trong cách đối xử với người dân thì cũng là chuyện chính đáng. May là thế giới vẫn còn nhiều người quan tâm đến việc đó. Nếu không, nhân loại đã đồng loạt trở thành bất nhân và lý tài: sẵn sàng vì lợi ích kinh tế mà bỏ qua những giá trị đạo đức và xã hội.
Đồng thời, trở qua vế thứ hai của mối quan hệ là chuyện "vĩnh viễn", chúng ta đều biết trong quan hệ giữa các quốc gia với nhau, không thể có đồng minh suốt đời hay kẻ thù vĩnh viễn. Tất cả tùy thuộc vào quyền lợi đối chiếu của hai bên, được hiểu theo nghĩa rộng, gồm cả an ninh, kinh tế lẫn ngoại giao và chính trị, và trong thế động, là thường xuyên thay đổi.
Người ta có thể nghiệm ra điều ấy khi xét tới quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Bang giao đôi bên đã được bình thường hoá về mọi mặt từ năm 2000 với việc Hoa Kỳ đồng ý cho Trung Quốc gia nhập tổ chức WTO. Ngày nay, Hoa Kỳ là thị trường xuất cảng lớn nhất của Trung Quốc và Trung Quốc đang là chủ nợ mới của Hoa Kỳ.
Nhưng ngày nay, trong khi bộ Ngoại giao Mỹ nói đến việc tăng cường hợp tác để Trung Quốc chuyển hoá thành một quốc gia bình thường và có trách nhiệm trong cộng đồng thế giới thì bộ Quốc phòng Mỹ vẫn tự chuẩn bị cho tình huống bất lợi. Là Trung Quốc không chuyển hoá được bình thường mà trở thành một đe dọa cho an ninh Hoa Kỳ tại Đông Á. Ở giữa, bộ Ngân khố có lập trường khi nắn khi buông với chuyện Bắc Kinh giàng giá đồng bạc vào tiền Mỹ theo hối suất quá thấp để chiếm lợi thế xuất cảng nhờ hàng rẻ….
Nếu xét tới quan hệ Mỹ-Hoa, ta thấy là vì lý do kinh tế hơn chính trị, Hoa Kỳ đã đồng ý cho Trung Quốc gia nhập WTO theo đề nghị của chính quyền Clinton thời đó. Nhưng, vì lý do chính trị hơn kinh tế, Hoa Kỳ cũng giàng nhiều điều kiện khác để có thể theo dõi tình hình. Lời hứa của Bắc Kinh với các đòi hỏi của Hoa Kỳ để gia nhập WTO có giá trị gì không" Và làm sao thẩm định nếu không theo dõi và báo cáo"
Trong tiến trình "bình thường hoá", Quốc hội Mỹ đã lập ra bốn cơ chế trao đổi, theo dõi và kiểm điểm: US-China Inter-Parliamentary Exchange năm 1999 tại Hạ viện, rồi năm 2004 tại Thượng viện; Congressional China Caucus và US-China Congressional Working Group vào giữa năm 2005. Tham dự các cơ chế ấy là đại diện dân cử của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hoà. Họ tiếp xúc với Quốc hội Bắc Kinh và trở về thảo luận trong khuôn khổ Quốc hội về sự các khía cạnh kinh tế, chính trị và quân sự của Trung Quốc nhìn từ giác độ quyền lợi của Mỹ. Thảo luận và làm luật.
Song song, Quốc hội cũng có một Hội đồng kiểm điểm tình hình Kinh tế và Quốc phòng trong quan hệ song phương (US-China Economic Review Commission) với nhiệm vụ là định kỳ báo cáo cho đại diện dân chúng biết về những thay đổi kinh tế, chính trị và an ninh tại Trung Quốc khả dĩ đe doạ kinh tế hay an ninh Hoa Kỳ. Đã vậy, bộ Ngoại giao và Quốc phòng Mỹ cũng định kỳ lập phúc trình với Quốc hội Hoa Kỳ về các vấn đề nhân quyền, dân chủ và cả quốc phòng xuất phát từ Trung Quốc.
Nghĩa là sau khi đã bình thường hoá quan hệ đôi bên, Hoa Kỳ vẫn có bảy tám bộ phận có trách nhiệm kiểm tra và công khai báo cáo với Quốc hội về tình hình Trung Quốc.
Mục tiêu chính yếu nằm bên dưới là kiểm điểm xem việc bình thường hoá quan hệ với Bắc Kinh có giúp cho sự cải thiện bên trong và bên ngoài hay không. Bình thường hoá không có nghĩa là "vĩnh viễn khoán trắng".
Ngoài những cơ chế được thiết lập bằng luật lệ hẳn hoi trong nội tình nước Mỹ, giới dân cử còn theo dõi kỹ ảnh hưởng tốt hay xấu của quan hệ mậu dịch và sẵn sàng can thiệp, tới độ chất vấn Hành pháp nếu thấy là quyền lợi của Mỹ bị đe dọa.
Một thí dụ thời sự là hai Nghị sĩ Lindsey Graham (Cộng hoà) và Charles Shumer (Dân chủ) đã hăm đệ nạp dự luật trừng phạt Trung Quốc với thuế suất phụ trội là 27,5% đánh trên hàng hoá Trung Quốc bán vào Hoa Kỳ vì hối suất đồng Nhân dân tệ được định ra quá thấp. Bên cạnh đó, hai Nghị sĩ khác cũng đề nghị biện pháp trả đũa Trung Quốc, đó là Charles Grassley (Cộng hoà) và Max Baucus (Dân chủ). Đặc biệt là hai ông Shumer và Maucus đã kịch liệt phê phán bộ Ngân khố và Đại sứ Thương mại là quá tương nhượng với Bắc Kinh.
Gần đaây nhất, khi điều trần trước Thượng viện cách đây một tháng để được phê chuẩn làm Đại sứ Thương mại, bà Susan Schwab phải chống đỡ rất nhiều chỉ trích từ các Nghị sĩ, nhất là thuộc đảng Dân chủ theo xu hướng bảo hộ mậu dịch.
Điều đáng chú ý nhất cho Việt Nam là một người đang gây sức ép rất mạnh với Hành pháp về chuyện Trung Quốc, Nghị sĩ Dân chủ Max Baucus của Montana, lại nhiệt liệt ngợi khen Đại sứ Thương mại Hoa Kỳ về kết quả đàm phán với Hà Nội. Không những vậy, ông còn đỡ đầu dự luật cho phép bình thường hoá quan hệ mậu dịch với Việt Nam một cách vĩnh viễn. Nhìn trên quan điểm Hoa Kỳ, đây là điều có lợi cho nước Mỹ! Ngoài ông Baucus, có bảy nghị sĩ khác đồng bảo trợ cho dự luật trên. Tại Hạ viện, một dự luật tương tự cũng được 37 Dân biểu bảo trợ, 13 Cộng hoà và 24 Dân chủ. Quyết định này mang tính chất lưỡng đảng và có hy vọng được thông qua trước khi Quốc hội mãn khoá để các Nghĩ sĩ Dân biểu trở về chuẩn bị cho cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ.
Tuy nhiên, từ kinh nghiệm với Trung Quốc, Quốc hội Mỹ cũng sẽ không buông tay khoán trắng mà vẫn nêu vấn đề hoặc sẽ đặt điều kiện với Hành pháp. Đây là chuyện bình thường và thực ra cần thiết.
Một số người cho rằng từ quan niệm "quyền lợi đối chiếu", Hoa Kỳ có thể dễ dãi với Hà Nội để lôi kéo Việt Nam về phiá mình trong quan hệ tay ba, với Trung Quốc. Việt Nam chưa có tư thế gì để có thể trông đợi hay sợ hãi chuyện ấy. Hoa Kỳ chỉ cần Việt Nam đứng ngoài tự lo lấy thân và đừng dại dột chạy cờ cho Bắc Kinh là đủ.
Ngược lại, nhiều người vẫn quan tâm đến sự chuyển hoá toàn diện và bình thường hoá thực sự tại Việt Nam nên vẫn sẽ nêu vấn đề về chính trị hay nhân quyền. Con đường tự do không thể là con đường một chiều đi xuống, và tự do kinh tế mà không có tự do thông tin và chính trị thì chỉ là tự do tham nhũng cho kẻ có chức có quyền. Ngoài lý do đạo đức, cũng họ hiểu rằng nếu không kịp thay đổi, Việt Nam chưa chắc đã có ổn định về dài và hỗn loạn tại Việt Nam là điều không ai muốn.
Có lẽ vì vậy mà một người như cựu Đại sứ Peterson ngày nay mới nói thẳng nói thật, đến nhu cầu xây dựng một môi trường thuận lợi về kinh doanh, công nghiệp và cả chính trị tại Việt Nam để kịp thời đối phó với những thách đố mới sau khi gia nhập WTO.