Thời gian trôi qua thật mau lẹ, làm việc không ngừng nghỉ, du lịch quá nhiều và rất khó để duy trì các mối liên hệ. Đến lúc một phụ nữ lập gia đình, đã có đuœ danh vọng sự nghiệp để nghĩ đến việc có con, thì thường đã quá trễ. Họ đến tham khaœo bác sĩ, thưœ máu và được baœo "cuộc chơi đã kết thúc ngay caœ trước khi nó bắt đầu". Họ bị choáng váng nghiêm trọng, đau buồn và giận dữ. Các phụ nữ thường thường biết khaœ năng sinh đeœ cuœa họ sút giaœm với thời gian; nhưng họ không biết là bao nhiêu và mau lẹ như thế nào. Theo Trung tâm Kiểm soát Dịch bịnh Hoa Kỳ (CDC), một khi một phụ nữ mừng sinh nhật thứ 42, cơ hội để có một đứa con bằng chính trứng cuœa mình thì ít hơn 10 phần trăm, ngay caœ với sự trợ giúp cuœa y học tân tiến. ƠŒ tuổi 40, một nưœa số trứng cuœa người phụ nữ trơœ nên bất bình thường về nhiễm sắc thể; đến tuổi 42, con số này là 90%.
Bà Hewlett và những người uœng hộ nói rằng họ chỉ đang cố gắng sưœa cho đúng sự lạc quan giaœ tạo rất phổ biến. Cuộc khaœo sát cuœa bà Hewlett tìm thấy rằng gần 9 trong số 10 phụ nữ treœ toœ ra rất tự tin về khaœ năng sinh đeœ cuœa họ trong tuổi 40. Trong cuối năm ngoái AIA thực hiện một cuộc khaœo sát trên internet về sự hiểu biết về khaœ năng sinh đeœ. Trong tổng số 12,524 người được hoœi ý kiến, chỉ có một người traœ lời đúng tất caœ 15 câu hoœi. Được hoœi khi nào thì khaœ năng sinh đeœ bắt đầu suy giaœm, chỉ có 13% traœ lời đúng (tuổi 27); 39% nghĩ là nó bắt đầu ơœ tuổi 40. Được hoœi thời gian bao lâu các cặp vợ chồng nên cố gắng tự thụ thai trước khi tìm sự giúp đỡ, 42% traœ lời là 30 tháng. Đây quaœ là một sự kết hợp rất nguy hiểm: một cặp vợ chồng tươœng tượng khaœ năng sinh đeœ sẽ không là vấn đề cho mãi đến tuổi 40, và cố gắng để có thai trong suốt 30 tháng trước khi đến gặp một bác sĩ thì rất khó để trơœ thành cha mẹ.
Sự nhầm lẫn này là điều có thể hiểu được: Chỉ mới trong 10 năm qua, các bác sĩ mới khám phá các giới hạn. Bà Claudia Morehead, một luật sư 47 tuổi, kể rằng: "Tôi còn nhớ đã được baœo bơœi một số bác sĩ rằng 'Ồ, bà còn rất nhiều thời gian', ngay caœ lúc đó tôi đã 38 tuổi". Bà Morehead cuối cùng đã có mang với trứng hiến tặng. Ngay caœ những nhà chuyên môn về chứng hiếm muộn rất nổi tiếng, như bác sĩ Sarah Berga, cũng đã thú nhận rằng: "Quaœ là điều gây sưœng sốt đối với chúng tôi rằng phương pháp thụ tinh nhân tạo (IVF) không mấy hiệu quaœ đối với phụ nữ sau 42 tuổi."
Sự không con là nỗi sầu khổ riêng, trong khi có được một đứa con kỳ diệu lại là tin tức hàng đầu trên báo chí chắc chắn sẽ xaœy ra. Bác sĩ Adamson thuộc trường đại học Stanley quaœ quyết rằng: "Khi bạn nhìn thấy các câu chuyện trên báo chí quaœng cáo rùm beng về việc phụ nữ trong tuổi 40 sinh con, đó chẳng qua là nhờ các trứng hiến tặng, nhưng điều này đã chẳng bao giờ được đề cập đến trong câu chuyện." Các bệnh viện tư chuyên trị chứng hiếm muộn thường có một sự khuyến khích về tài chánh để thổi phồng tin tức tốt đẹp và che giấu sự thật: một phụ nữ 45 tuổi traœi qua bẩy lần thụ tinh nhân tạo có thể dễ dàng chi tới $100,000 cho việc chữa trị này. Nhưng ngay caœ tại những bệnh viện tốt nhất ơœ Hoa Kỳ, cơ hội để có đứa con ẵm về nhà cuœa bà ấy thì rất nhoœ.
Nhằm để gia tăng sự hiểu biết cuœa phụ nữ, trong cuối năm ngoái AIA đã phát động một chiến dịch quaœng cáo rất khiêm nhượng với số tiền chỉ vọn vẹn $60,000, với các tờ bích chương và các tập sách nhoœ khuyến cáo các nhân tố như hút thuốc, trọng lượng cơ thể quá mức và sự nhiễm trùng lan truyền qua đường tình dục có thể làm hại đến khaœ năng sinh đeœ. Nhưng dư luận xôn xao đã xaœy ra đối với lời caœnh cáo thứ tư, "Tuổi tác ngày càng lớn làm giaœm bớt khaœ năng có con cuœa bạn." Các bác sĩ xem việc làm này như một sự phục vụ công chúng, nhưng họ đã bị chỉ trích vì đã làm lo sợ các phụ nữ bằng một thông điệp quá đơn giaœn về một đề tài phức tạp.
Theo bà Kim Gandy, người có đứa con đầu tiên khi ơœ tuổi 39 và là chuœ tịch cuœa tổ chức the National Organization for Women, sự gợi ý rằng 'phaœi mau lẹ có các đứa con ngay bây giờ hoặc chẳng bao giờ có con nữa' là điều không đúng đối với đại đa số phụ nữ. Sự nhấn mạnh vào tuổi tác cuœa phụ nữ bên trên tất caœ các nhân tố khác có thể là thêm một sự thông tin sai lạc nữa: "Có hai người tham gia vào việc tạo ra em bé, tuy nhiên chúng ta đặt tất caœ trách nhiệm lên người phụ nữ và ngụ ý rằng các phụ nữ ích kyœ nếu họ không quyết định có các đứa con sớm." Và bà chia seœ sự lo ngại rằng các phụ nữ sẽ nghe cuộc nghiên, nhìn thấy các quaœng cáo và cuối cùng caœm thấy vô ích ngay caœ để làm thưœ. Và bà Caryl Rivers, một giáo sư báo chí cuœa trường Đại học Boston, nói rằng: "Hiện có một chương trình chống lại thuyết nam nữ bình quyền và nói rằng chúng tôi nên trơœ lại thập niên 1950. Thông điệp ngầm cuœa nó là 'đừng học cao quá; đừng thành công quá hoặc đừng có quá nhiều tham vọng'."
Trong khi đó bà Allison Rosen, một nhà tâm lý học ơœ New York City, không đồng ý với ý kiến này: "Đây không phaœi là trường hợp các nam bác sĩ muốn giữ các phụ nữ đi chân đất và có thai. Họ chỉ trình bầy các sự thật và lúc đó bất cứ phụ nữ nào cũng có thể tự lựa chọn." Và bà Madsen thuộc AIA nói thêm rằng: "Tôi caœm thấy sợ hãi khi những người uœng hộ thuyết nam nữ bình quyền nói rằng việc cung cấp cho phụ nữ sự hiểu biết về sinh saœn là áp lực họ có con. Điều này hoàn toàn không đúng. Quyền tự do sinh saœn không chỉ là khaœ năng để không có một đứa con qua sự kiểm soát sinh đeœ. Nó là khaœ năng để có một đứa con nếu và khi nào bạn muốn."