*
Chính phủ liên bang cùng chính phủ tiểu bang NSW đang khởi động một chiến dịch nhằm đưa ra những luật lệ khe khắt hơn về nha phiến, đặc biệt là về những loại cần sa (cannabis), như một nỗ lực để đối phó với vấn nạn ngày càng nặng nề hơn của bệnh tâm thần. Thế nhưng, theo một bản phúc trình của Học Viện Úc Châu cho thấy thì luật lệ nghiêm ngặt về nha phiến không phải là giải pháp cho những vấn nạn thuộc về bệnh tâm thần và các loại nha phiến.
Theo bản phúc trình này thì các sách lược đối phó với vấn đề nha phiến nên thiên về phần chữa trị (treatment orientated) và để giảm bớt những gánh nặng trừng phạt đối với con nghiện thì chúng ta nên tìm cách khuyên ngăn những ai chưa dùng nha phiến để họ không dùng, đồng thời chúng ta nên cung cấp các biện pháp trị liệu cai nghiện hữu hiệu cho những người nghiện ngập. Bản phúc trình cũng cho thấy, việc thi hành các biện pháp cứng rắn (drug law enforcement) không hề làm suy suyển thị trường nha phiến (illicit drug markets) một chút nào cả, đặc biệt là nếu so sánh kết quả của những biện pháp cứng rắn với những biện pháp khác, chẳng hạn như những biện pháp chuyên chú vào việc trị liệu.
Hội Đồng Toàn Quốc về Nha Phiến (Australian National Council On Drugs), cơ quan tư vấn chánh thức của chính phủ liên bang về các chính sách liên quan đến nha phiến, đã lên tiếng phản bác lại bản phúc trình này bằng cách đưa ra các con số thống kê cho thấy trong những năm gần đây việc sử dụng nha phiến có phần nào suy giảm và việc sử dụng bạch phiến cũng như các trường hợp dùng bạch phiến quá độ (overdose) cũng sụt giảm một cách rõ rệt so với khoảng cuối thập niên 90.
Có phải Sách Lược Chống Nha Phiến Toàn Quốc (National Drug Strategy) và nỗ lực của cảnh sát đã tạo ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng nha phiến cũng như những nguy hiểm về nha phiến chăng" Chỉ có những người thật quá khích chuyên chống cấm đoán (radical anti-prohibitionist) mới phủ nhận các khía cạnh tích cực của Sách Lược Quốc Gia này. Những phần trong sách lược nhắm vào việc triệt giảm nguy hại (harm reduction components) - chẳng hạn như các chương trình đổi kim (needle exchange) và phát methadone miễn phí - đã cứu được nhiều mạng sống, đã giảm thiểu mức độ phạm tội và làm suy giảm những tổn phí xã hội liên quan đến việc sử dụng nha phiến. Tuy nhiên, Sách Lược này cũng có nhiều điểm tiêu cực, bao gồm sự tiếp tục đặt trọng tâm vào việc ban hành và áp dụng luật lệ cùng biện pháp cứng rắn (law enforcement) và sự từ chối của chính phủ các cấp trong việc thử nghiệm các sáng kiến triệt giảm nguy hại, chẳng hạn như cấp bạch phiến theo toa bác sĩ và khai triển những cơ sở để con nghiện có thể chích trong an toàn (safe injecting rooms).
Nhiều cuộc nghiên cứu đã được thực hiện và không hề tìm được một mối quan hệ nào rõ rệt giữa các vụ bố ráp tịch thu nha phiến (drug seisures) và số lượng nha phiến lưu hành trên đường phố (street level availabilities) hoặc giá cả bán lẻ thay đổi cho con nghiện. Một trường hợp ngoại lệ là vụ khan hiếm bạch phiến từ năm 2001. Chính phủ Liên bang và nhiều cơ quan khác cho rằng đấy là kết quả hiển hiện của việc áp dụng biện pháp cứng rắn, gia tăng bố ráp. Thế nhưng, bằng chứng cho thấy đấy là một suy nghĩ sai lầm. Dường như nguyên nhân chính của sự khan hiếm này là một quyết định mang tính thương mại (commercial decision) của các ổ buôn nha phiến Đông Nam Á trong việc chuyển hướng từ buôn lậu bạch phiến sang buôn lậu methamphetamines. Ba dữ kiện quan trọng sau đây yểm trợ cho kết luận này.
Thứ nhất, trong những năm gần đây, số lượng methamphetamines bị tịch thu có gia tăng đáng kể, thế nhưng, sự phổ thông của nó trên đường phố, trong xã hội cũng gia tăng gấp bội. Cùng gia tăng với nó là những vấn nạn xã hội liên hệ, đến mức độ mà tầm vóc của vấn nạn về methamphetamine hiện nay tương đương với vấn nạn về bạch phiến trong những năm cuối thập niên 90. Những dữ liệu được thu thập gần đây chứng minh rằng trong vòng bốn năm qua, chứng rối loạn tâm thần vì amphetamines gia tăng 60%. Con số thống kê này không thể nào là một minh chứng cho những nhận định lạc quan về tình hình chung trong vấn đề nha phiến.
Thứ nhì, mức sản xuất bạch phiến của Miến Điện - nguồn gốc chính yếu của thị trường bạch phiến ở Úc - trong vài năm qua đã sụt giảm 80% so với khoảng cuối thập niên 90, và không ai có thể tuyên bố một cách nghiêm chỉnh rằng nỗ lực của cảnh sát Úc là nguyên nhân chính của sự việc này.
Và cuối cùng hết là những tin tức tình báo của cảnh sát cho thấy các tổ chức tội phạm buôn lậu và cung cấp methamphetamines từ Á Châu chính là những tổ chức từng buôn lậu bạch phiến trước đó. Từ đó, người ta phải đặt câu hỏi rằng nếu quả thật nỗ lực của nhân viên công lực đã tạo nên sự sụt giảm thấy rõ của số lượng bạch phiến trên thị trường Úc thì tại sao nỗ lực này lại thất bại trong việc ngăn chận methamphetamines tràn ngập qua cùng các đường dây này"
Giải pháp dĩ nhiên không phải là việc bãi bỏ hoàn toàn những biện pháp cảnh sát trị an. Thế nhưng, chắc chắn là chúng ta cần có một sự chuyển hướng rõ rệt để đặt trọng tâm vào các phương pháp trị liệu và phòng ngừa (treatment and prevention) như những phần tử chính yếu của các giải pháp về vấn nạn nha phiến. Trong lúc có nhiều bằng chứng thật rõ rệt cho thấy chữa trị là phương pháp hữu hiệu nhất (most cost effective) trong việc đối phó với các vấn nạn về nha phiến - mỗi một Úc Kim được chi dùng sẽ giúp tiết kiệm được $12 Úc Kim - thì oái oăm thay hơn 80% ngân quỹ của chính phủ trong vấn đề này lại được sử dụng cho các biện pháp trật tự trị an. Tuyên bố “cứng rắn với nha phiến” thật ra chỉ là một biện pháp hoạt đầu chính trị và thật ra là một sự lười nhác trong việc hoạch định chính sách.