Hỏi (Ông Trần T.T.): Cách đây hơn 2 tháng con tôi đã bị bắt và bị cáo buộc về tội cung cấp bạch phiến. Đơn xin tại ngoại của cháu đã bị từ chối, hiện cháu đang bị giam giữ chờ ngày xét xử. Tôi được cháu cho biết là sự việc đã xảy ra như sau:
Nguyên trước đây cháu có quen biết với một người bạn, người này thường cho cháu mượn tiền tiêu xài hàng tuần, cho đến lúc cháu thiếu nợ người bạn này một số tiền là $8,600. Một số tiền mà cháu không thể nào trả nổi.
Cháu cho biết thêm về lý do trước ngày cháu bị bắt, cháu thường bỏ nhà đi vì cháu đã bị người bạn này dọa rằng nếu không trả lại số tiền còn thiếu thì họ sẽ cho người đến nhà thanh toán. Cháu đã cho họ biết rằng cháu không còn sống chung với gia đình nữa.
Cho đến một hôm trong lúc đang ngồi chờ xe lửa tại trạm Sydnham thì cháu gặp lại người bạn mà cháu đã thiếu nợ trước đây. Người bạn này đi chung với 2 người khác tuổi chừng 25. Họ đã tiến đến băng ghế mà cháu đang ngồi và nói rằng “mầy phải đi với tụi tao đến Campsie”. Vì còn thiếu tiền và đã bị đe dọa nhiều lần trước đây nêu con tôi đã phải riu ríu đi theo họ.
Sau khi lên xe lửa, họ đưa cho con tôi $200 và cho biết là họ có thể xóa nợ cho cháu nếu cháu giữ hộ giùm họ một túi xách và đến gặp họ tại K Mart ở Bankstown vào lúc 4 giờ chiều hôm đó. (Lúc đó là 11 giờ sáng).
Rất ngạc nhiên trước thái độ của các người này. Con tôi bèn hỏi: “mày có thể cho tao biết là cái gì trong túi xách này được không"” Người bạn trả lời: “mầy hỏi thì tao cho mày biết luôn; trong đó gồm một chút đỉnh bạch phiến và một số thuốc ecstasy, mầy mà để mất là mầy đừng ở Uùc này nữa”; “mầøy hiểu ý tụi tao chứ gì"” con tôi gật đầu, người bạn bèn nói tiếp: “nếu mầy làm tốt chiều nay tao sẽ đưa thêm cho mầy 300 đô, đồng thời xóa nợ cho mầy luôn”.
Sau khi rời khỏi trạm xe lửa Bankstown và ngồi uống nước trong khu shopping thì cháu đã bị bắt. Cháu có khai với cảnh sát rằng cháu chỉ biết tên người bạn của cháu mà không biết nơi cư ngụ của đương sự.
Xin LS cho biết là trong trường hợp vừa nêu cháu có thể được tòa tha tội hay không" Vì mọi việc cháu làm là hoàn toàn do sự ép buộc và đã xảy ra ngoài ý muốn của cháu.
Trả lời: Điều cơ bản đối với viêïc bào chữa liên hệ đến “sự ép buộc” (duress) là: “hành động bất hợp pháp của bị cáo” (the accused’s unlawful action) không nên bị trừng phạt vì ý định của đương sự đã bị trấn áp bởi “sự đe dọa về chết chóc kề cận hoặc sự bạo hành sẽ xảy đến tức thì” (threats of imminent death or violence), và vì thế “một người bình thường” (the ordinary person) trong tình huống của bị cáo sẽ không thể phản kháng những yêu cầu buộc đương sự phải làm.
Tuy nhiên, luật lệ liên hệ đến “sự ép buộc” vẫn ở trong “tình trạng rất mập mờ và không thỏa đáng” (in a very vague and unsatisfactory state).
Trong vụ Hudson and Taylor [1971], “Tòa Kháng Aùn của Anh Quốc” (the English Court of Appeal) đã thừa nhận rằng “sự ép buộc” được áp dụng nếu ý muốn của bị cáo đã bị trấn áp bởi sự đe dọa về chết chóc hoặc sự thương tích trầm trọng sẽ xảy đến, vì thế sự phạm tội sẽ không còn là một hành động tự nguyện cũa bị cáo nữa. Tuy nhiên, trong vụ Harding Tòa Kháng Aùn tại Victoria đã thấy khó khăn trong việc áp dụng các nguyên tắc về “sự ép buộc”.
Trong vụ Chính Quyền truy tố Lawrence [1980]. Trong vụ đó, 6 bị cáo đã được xét xử liên hệ đến tội đồng lõa để nhập cảng một số lượng bạch phiến vào Uùc, qua ngỏ Papua New Guinea. Một trong các bị cáo này, De Graaf, là “hoa tiêu của chiếc tàu” (the navigator of a ship) liên hệ đến vụ nhập cảng lậu này. Đương sự cho rằng thoạt tiên ông ta hoàn toàn không hay biết gì về việc nhập lậu này, và rằng khi ông ta biết được điều đó ông đã bị buộc phải tham gia vì sự đe dọa đến tính mệnh của ông ta. Gồm cả việc bị dọa bắn vào đùi.
Vị thẩm phán tọa xử đã hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn rằng: Trách nhiệm của công tố viện là phải bác bỏ cho bằng được “sự ép buộc” (duress) mà không còn một sự nghi ngờ nào cả; lời bào chữa về sự ép buộc đòi hỏi rằng ý định của bị cáo đã bị trấn áp và “những gì đương sự đã thực hiện không phải là hành động tự nguyện của đương sự” (what he did was not his voluntary act).
Bằng chứng trưng dẫn phải biểu hiện được rằng sự ép buộc đã đến một mức độ mà “một người có tính cương quyết bình thường” (a person of ordinary firmness of character) sẽ phải hành động như bị cáo đã hành động; và “sự trấn áp đối với ý muốn” (the overbearing of the will) được thực hiện vào lúc tội hình sự đã phạm phải và nếu có cơ hội thích hợp để cho bị cáo thay đổi ý muốn thì bị cáo buộc phải thay đổi ý muốùn đó của mình.
Vào lúc xét xử, công tố việc đã trưng dẫn được nhiều lần “bị cáo” đã có cơ hội trốn thoát và đến báo cho cảnh sát, và vị thẩm phán tọa xử đã đề cập những điều này trong lời hường dẫn tóm lược cho bồi thẩm đoàn liên hệ đến việc tái xác quyết về ý muốn “bị cáo”. Bị cáo đã bị kết tội và đương sự bèn kháng án.
Tại Tòa Kháng Aùn Hình Sự, Thẩm Phán Moffit cho rằng khi có cơ hội để bị cáo đến báo cho cảnh sát thì đó là điều thích đáng mà bồi thẩm đoàn cần phải suy xét, cũng như bồi thẩm đoàn cũng phải suy xét đến sự nguy hiểm mà “bị cáo” có thể phải gánh chịu khi đương sự phải đi trình báo cho cảnh sát.
Câu hỏi tối quan trọng mà luật pháp cần phải đặt ra là liệu bị cáo có một cơ hội thích đáng để tái xác quyết lại ý muốn của mình hay không. Dĩ nhiên, nếu cơ hội đi trình báo cho cảnh sát chẳng giúp ích gì cho “bị cáo” trong việc tránh khỏi được những sự đe dọa thì cơ hội đó không được xem như là một cơ hội để cho bị cáo tái xác quyết lại ý muốn của mình.
Nói tóm lại luật lệ về “sự ép buộc” có thể tóm lược như sau: (a) khi một người thực hiện một tội phạm hình sự do sự trấn áp đối với ý muốn của đương sự bởi sự đe dọa về sự chết chóc hoặc sự bạo hành thì sự bào chữa đối với “sự ép buộc” đó sẽ được áp dụng với điều kiện là nếu “một người có tâm trí cương quyết bình thường” (a person of ordinary firmness of mind), ở vào tuổi tác, phái tính và trong tình huống của bị cáo sẽ hành động như bị cáo; (b) nếu có cơ hội để thay đổi ý muốn mà bị cáo không chịu thay đổi ý muốn của mình thì ‘bị cáo” sẽ không được hưởng những nguyên tắc bào chữa đối với “sự ép buộc” đó. Vấn đề được đặt ra ở đây là liệu một người có tính cương quyết bình thường, ở vào tuổi tác, phái tính và trong tình huống của bị cáo có xử dụng cơ hội đó để thay đổi ý muốn của mình hay không; (c) Riêng việc hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn trước khi luận tội còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác chẳng hạn như mức độ nguy hiểm đối với “bị cáo” nếu đương sự xem nhẹ lời đe dọa, tuổi tác, phái tính, môi trường mà trong đó bị cáo đã và đang sinh sống, cùng nhiều yếu tố khác.
Dựa vào luật lệ cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng sự biện minh cho con của ông trong trường hợp này còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác. Tuy nhiên, trong lời buộc của công tố viện chắc chắn rằng họ sẽ nhấn mạnh đến việc con của ông đã không chịu đến khai báo cho cảnh sát ngay khi rời khỏi trạm xe lửa ở Bankstown mà đã an nhiên ngồi uống nước tại khu shopping để chờ găïp người bạn của mình. Tôi đề nghị ông nên đến gặp LS của ông để được cố vấn và hướng dẫn tận tình hơn. ¦
Nguyên trước đây cháu có quen biết với một người bạn, người này thường cho cháu mượn tiền tiêu xài hàng tuần, cho đến lúc cháu thiếu nợ người bạn này một số tiền là $8,600. Một số tiền mà cháu không thể nào trả nổi.
Cháu cho biết thêm về lý do trước ngày cháu bị bắt, cháu thường bỏ nhà đi vì cháu đã bị người bạn này dọa rằng nếu không trả lại số tiền còn thiếu thì họ sẽ cho người đến nhà thanh toán. Cháu đã cho họ biết rằng cháu không còn sống chung với gia đình nữa.
Cho đến một hôm trong lúc đang ngồi chờ xe lửa tại trạm Sydnham thì cháu gặp lại người bạn mà cháu đã thiếu nợ trước đây. Người bạn này đi chung với 2 người khác tuổi chừng 25. Họ đã tiến đến băng ghế mà cháu đang ngồi và nói rằng “mầy phải đi với tụi tao đến Campsie”. Vì còn thiếu tiền và đã bị đe dọa nhiều lần trước đây nêu con tôi đã phải riu ríu đi theo họ.
Sau khi lên xe lửa, họ đưa cho con tôi $200 và cho biết là họ có thể xóa nợ cho cháu nếu cháu giữ hộ giùm họ một túi xách và đến gặp họ tại K Mart ở Bankstown vào lúc 4 giờ chiều hôm đó. (Lúc đó là 11 giờ sáng).
Rất ngạc nhiên trước thái độ của các người này. Con tôi bèn hỏi: “mày có thể cho tao biết là cái gì trong túi xách này được không"” Người bạn trả lời: “mầy hỏi thì tao cho mày biết luôn; trong đó gồm một chút đỉnh bạch phiến và một số thuốc ecstasy, mầy mà để mất là mầy đừng ở Uùc này nữa”; “mầøy hiểu ý tụi tao chứ gì"” con tôi gật đầu, người bạn bèn nói tiếp: “nếu mầy làm tốt chiều nay tao sẽ đưa thêm cho mầy 300 đô, đồng thời xóa nợ cho mầy luôn”.
Sau khi rời khỏi trạm xe lửa Bankstown và ngồi uống nước trong khu shopping thì cháu đã bị bắt. Cháu có khai với cảnh sát rằng cháu chỉ biết tên người bạn của cháu mà không biết nơi cư ngụ của đương sự.
Xin LS cho biết là trong trường hợp vừa nêu cháu có thể được tòa tha tội hay không" Vì mọi việc cháu làm là hoàn toàn do sự ép buộc và đã xảy ra ngoài ý muốn của cháu.
Trả lời: Điều cơ bản đối với viêïc bào chữa liên hệ đến “sự ép buộc” (duress) là: “hành động bất hợp pháp của bị cáo” (the accused’s unlawful action) không nên bị trừng phạt vì ý định của đương sự đã bị trấn áp bởi “sự đe dọa về chết chóc kề cận hoặc sự bạo hành sẽ xảy đến tức thì” (threats of imminent death or violence), và vì thế “một người bình thường” (the ordinary person) trong tình huống của bị cáo sẽ không thể phản kháng những yêu cầu buộc đương sự phải làm.
Tuy nhiên, luật lệ liên hệ đến “sự ép buộc” vẫn ở trong “tình trạng rất mập mờ và không thỏa đáng” (in a very vague and unsatisfactory state).
Trong vụ Hudson and Taylor [1971], “Tòa Kháng Aùn của Anh Quốc” (the English Court of Appeal) đã thừa nhận rằng “sự ép buộc” được áp dụng nếu ý muốn của bị cáo đã bị trấn áp bởi sự đe dọa về chết chóc hoặc sự thương tích trầm trọng sẽ xảy đến, vì thế sự phạm tội sẽ không còn là một hành động tự nguyện cũa bị cáo nữa. Tuy nhiên, trong vụ Harding Tòa Kháng Aùn tại Victoria đã thấy khó khăn trong việc áp dụng các nguyên tắc về “sự ép buộc”.
Trong vụ Chính Quyền truy tố Lawrence [1980]. Trong vụ đó, 6 bị cáo đã được xét xử liên hệ đến tội đồng lõa để nhập cảng một số lượng bạch phiến vào Uùc, qua ngỏ Papua New Guinea. Một trong các bị cáo này, De Graaf, là “hoa tiêu của chiếc tàu” (the navigator of a ship) liên hệ đến vụ nhập cảng lậu này. Đương sự cho rằng thoạt tiên ông ta hoàn toàn không hay biết gì về việc nhập lậu này, và rằng khi ông ta biết được điều đó ông đã bị buộc phải tham gia vì sự đe dọa đến tính mệnh của ông ta. Gồm cả việc bị dọa bắn vào đùi.
Vị thẩm phán tọa xử đã hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn rằng: Trách nhiệm của công tố viện là phải bác bỏ cho bằng được “sự ép buộc” (duress) mà không còn một sự nghi ngờ nào cả; lời bào chữa về sự ép buộc đòi hỏi rằng ý định của bị cáo đã bị trấn áp và “những gì đương sự đã thực hiện không phải là hành động tự nguyện của đương sự” (what he did was not his voluntary act).
Bằng chứng trưng dẫn phải biểu hiện được rằng sự ép buộc đã đến một mức độ mà “một người có tính cương quyết bình thường” (a person of ordinary firmness of character) sẽ phải hành động như bị cáo đã hành động; và “sự trấn áp đối với ý muốn” (the overbearing of the will) được thực hiện vào lúc tội hình sự đã phạm phải và nếu có cơ hội thích hợp để cho bị cáo thay đổi ý muốn thì bị cáo buộc phải thay đổi ý muốùn đó của mình.
Vào lúc xét xử, công tố việc đã trưng dẫn được nhiều lần “bị cáo” đã có cơ hội trốn thoát và đến báo cho cảnh sát, và vị thẩm phán tọa xử đã đề cập những điều này trong lời hường dẫn tóm lược cho bồi thẩm đoàn liên hệ đến việc tái xác quyết về ý muốn “bị cáo”. Bị cáo đã bị kết tội và đương sự bèn kháng án.
Tại Tòa Kháng Aùn Hình Sự, Thẩm Phán Moffit cho rằng khi có cơ hội để bị cáo đến báo cho cảnh sát thì đó là điều thích đáng mà bồi thẩm đoàn cần phải suy xét, cũng như bồi thẩm đoàn cũng phải suy xét đến sự nguy hiểm mà “bị cáo” có thể phải gánh chịu khi đương sự phải đi trình báo cho cảnh sát.
Câu hỏi tối quan trọng mà luật pháp cần phải đặt ra là liệu bị cáo có một cơ hội thích đáng để tái xác quyết lại ý muốn của mình hay không. Dĩ nhiên, nếu cơ hội đi trình báo cho cảnh sát chẳng giúp ích gì cho “bị cáo” trong việc tránh khỏi được những sự đe dọa thì cơ hội đó không được xem như là một cơ hội để cho bị cáo tái xác quyết lại ý muốn của mình.
Nói tóm lại luật lệ về “sự ép buộc” có thể tóm lược như sau: (a) khi một người thực hiện một tội phạm hình sự do sự trấn áp đối với ý muốn của đương sự bởi sự đe dọa về sự chết chóc hoặc sự bạo hành thì sự bào chữa đối với “sự ép buộc” đó sẽ được áp dụng với điều kiện là nếu “một người có tâm trí cương quyết bình thường” (a person of ordinary firmness of mind), ở vào tuổi tác, phái tính và trong tình huống của bị cáo sẽ hành động như bị cáo; (b) nếu có cơ hội để thay đổi ý muốn mà bị cáo không chịu thay đổi ý muốn của mình thì ‘bị cáo” sẽ không được hưởng những nguyên tắc bào chữa đối với “sự ép buộc” đó. Vấn đề được đặt ra ở đây là liệu một người có tính cương quyết bình thường, ở vào tuổi tác, phái tính và trong tình huống của bị cáo có xử dụng cơ hội đó để thay đổi ý muốn của mình hay không; (c) Riêng việc hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn trước khi luận tội còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác chẳng hạn như mức độ nguy hiểm đối với “bị cáo” nếu đương sự xem nhẹ lời đe dọa, tuổi tác, phái tính, môi trường mà trong đó bị cáo đã và đang sinh sống, cùng nhiều yếu tố khác.
Dựa vào luật lệ cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng sự biện minh cho con của ông trong trường hợp này còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác. Tuy nhiên, trong lời buộc của công tố viện chắc chắn rằng họ sẽ nhấn mạnh đến việc con của ông đã không chịu đến khai báo cho cảnh sát ngay khi rời khỏi trạm xe lửa ở Bankstown mà đã an nhiên ngồi uống nước tại khu shopping để chờ găïp người bạn của mình. Tôi đề nghị ông nên đến gặp LS của ông để được cố vấn và hướng dẫn tận tình hơn. ¦
Gửi ý kiến của bạn