Còn non 6 tuần lễ nữa là đến ngày bầu cử 7 tháng 11 năm 2006. Cuộc chạy đua của các ứng cử viên vào từ Quốc Hội Liên bang, Tiểu bang đến Hội đồng Thành phố và các Hội đồng chuyên môn như giáo dục, vệ sinh, cấp nước đã bắt đầu vào nước rút. Tuy đây là cuộc bầu cử nửa nhiệm kỳ tổng thống, theo thông lệ chánh trị bầu cử Mỹ, ít sinh động, ít cử tri đi bầu như kỳ bầu cử tổng thống bốn năm một lần.
Nhưng kỳ bầu cử nửa nhiệm kỳ tổng thống này lại sinh động và quyết liệt. Đối với tiểu bang và liên bang, nhà nước lớn, các ứng cử viên dân biểu, nghị sĩ của hai đảng và cả hai chánh đảng chánh yếu Cộng Hoà, Dân Chủ cũng vận động quyết liệt, gay go để giành quyền kiểm soát Quốc Hội, tạo điều kiện thuận lợi cho vị tổng thống của Đảng mình được bầu vào năm 2008.
Còn đối với chánh quyền điạ phương nhà nước nhỏ nhưng sát sườn với cuộc sống người dân, như tại Little Saigon, nơi có cộng đồng người Việt đông nhứt Mỹ, số ứng cử viên gốc Việt kỳ này ra nhiều nhứt, liên minh chặt chẽ nhứt, đề tài vận động thiết thực, sát với quyền lợi địa phương của người Việt tại các đơn vị đông dân Việt của TB Cali so các kỳ bầu cử cùng loại vừa qua.
Nhiều ứng cử viên Mỹ gốc Việt trẻ đã bung ra mở tiệc gây quỹ ở nhà hàng, mở văn phòng tranh nơi thị tứ, và cấm đầy bích chương ngoài đường, truyền đơn ứng cử, tin tức ứng cử xuất hiện sôi nổi trên báo chí, phát thanh, phát hình. Nhiều hứng thú. Đặc biệt năm nay lần đầu tiên sau 30 năm, lớp trẻ gốc Việt dấn thân đông, mạnh, đoàn kết nhứt trong việc ứng cử để tạo thế đứng và tranh đấu cho quyền lợi cho khối người gốc Việt trong dòng chánh quyền Mỹ. Đề tài tranh cử sát cuộc sống, từ cách bảo vệ cái bánh chưng, quyền thăm cháu của ông bà, đến lá quốc kỳ, cho đến lớp học, cấp nước, lệ phí vệ sinh đều có đủ. Cũng có người nói lạm phát ứng cử viên, nghèo đề tài tranh cử. Nhưng phân tích khoa học cho thấy nếu đác cử hết 17 người Việt, sự đại diện Việt trong chánh quyền tiểu bang và địa phương cũng chưa cân đối với tổng số người Mỹ gốc Việt. Và đề tài tranh cử thấy nghèo vì tưởng dân cử địa phương có sáng quyền lập pháp như dân biểu nghị sĩ để giải quyết "mức thuế má, trợ cấp, bảo hiểm". Chánh quyền Mỹ nói chung, sư phân công và phân cấp quản trị rất tinh tế giữa địa phương, tiểu bang, và trung ương, cần phải xét từng "chuyên đề" mới thấy rõ - không thể nói chung chung.
Nhưng nhờ tình đoàn kết Việt, một liên minh tranh cử gồm 8 người hình thành: Văn Trần, Lân Nguyễn, Tân Nguyễn, Trí Tạ, Andy Quách, Trung Nguyễn, Dina Nguyễn, Diệp Trương. Và nhờ sức mạnh chính trị của tập thể ngưòi Việt, theo nhận thức của Dân Biểu Trần Thái Văn, đảng Cộng Hoà Quận Cam nghị quyết ủng hộ. Điều đó sẽ giúp cho liên minh này đỡ tốn kém và khỏi phải trực tiếp đương đầu với những chống đối nào trong đảng Cộng Hoà tại Quận Cam.
Và cũng nhờ tình đoàn kết Việt và tôn trọng cái khác nhau của Mỹ, và ý muốn của cử tri úng cử viên Việt phải đoàn kết, hiện tượng ứng cử viên Việt đánh phá nhau chưa thấy. Báo chí tiếng Việt nói chung không muốn gà cùng một mẹ bôi mặt đá nhau, không tiếp tay cho các cuộc "gấu ó".
Nên một số đặc điểm của cuộc bầu cử 7 tháng 11 sắp tới đã bộc lộ khá rõ rệt.
Một, nói chung trên toàn quốc, cử tri bắt đầu tập trung chú ý nhiều đến các ứng cử viên hơn là hai vấn đề thời sự lớn nóng bỏng lâu nay, chiến tranh Iraq và giá xăng dầu lên. Đối với khối cử tri sắc tộc thiểu số, đặc biệt tại TB Cali, các ứng cử viên Mỹ Trắng chú ý nhiều hơn đến quyền lợi tinh thần, kết tụ trong chánh nghĩ đấu tranh kiên trì của người Việt: tự do, dân chủ, nhân quyến VN. Nếu TĐ Cali Arnold với sự vận động của DB Lynn Daucher và Trần thái Văn đều thuộc Đảng Cộng Hoà, dùng thẩm quyền hành pháp ký sắc lịnh thừa nhận và ủng hộ quốc kỳ VN, thì Nữ Dân biểu Sanchez cũng cố gắng vận động Hạ viện Liên bang thông qua nghị quyết khuyến nghị CS Hà nội phải giải quyết vấn đề đất đai cho người Việt. Dù đó chỉ những niềm vui phi vật chất nhưng nó cũng làm loãng đi hai thời sự nóng bỏng mà truyền thông đưa đến từng bữa ăn của gia đình là tình hình khói lửa ở Iraq.
Hai, thăm dò dư luận của nhiều cơ sở truyền thông Mỹ phổ biến cho thấy Đảng Dân Chủ vẫn mong mỏi thắng nhiều để chiếm quyền kiểm soát Quốc Hội liên bang. Cả hai viện Quốc Hội càng tốt, nếu không cũng ráng được một. Nhưng có vẽ mong manh. Tại nhiều đơn vị, ứng cử viên mới được Đảng chọn lựa qua bầu cử sơ bộ của nội bộ Đảng không sát với nguyện vọng cử tri nói chung, mà cuộc bầu cử ngày 7 tháng 11 là tổng tuyển cử, tức cử tri bất cứ đảng nào, hay không đảng đều có toàn quyền chọn lựa..
Ba, ứng cử viên tái ứng cử dù ở cấp nào, dù ở đảng nào, Cộng Hoà hay Dân Chủ, trong nhiệm kỳ đã hoạt động cho quyền lợi của đơn vị bầu cử và đa số cử tri và chứng minh cụ thể được đã khéo léo chia được cái bánh ngân sách đem về cho đơn vị, đều được cử tri ưa chuộng. Những ứng cử viên đó không gặp khó khăn trong việc tranh cử và dễ tái đắc cử.
Bốn, cử tri rộng lượng và công bình, nhìn ứng cử viên như một con người như mình, với thân phận Con Người có hỉ nộ ái ố lạc dục tham sân si. Nên vấn đề lở kiếm thêm chút cháo, lở ham vui một chút, kẹt nhũng lạm tí ti, thuộc lãnh vực đạo đức của ứng cử viên không trở thành vấn đề lớn. Và mía sâu có đót nhà dột có nơi. Cả hai Đảng đều có người như vậy, đều có người bị Quốc Hội truất quyền để truy tố hình sự vì tham nhũng.
Đại đa số cử tri "thương" người đại diện dân cử của mình, có khi bất đồng chánh kiến với người ấy về một vài vấn đề quốc gia đại sự như về Chiến tranh Iraq, thuế má. Nhưng không vì thế mà đi đầu phiếu cho ứng cử viên đối lập - ít khi lắm.
Năm, muốn hay không muốn TT Bush là một vấn đề trong cuộc bầu cử 7-11 này vì Ong là người đứng đầu của đảng Cộng Hoà nắm chánh quyền hơn 6 năm rồi cho đến kỳ bầu cử 7-11. Chiến tranh Iraq là mục tiêu của đảng đối lập Dân Chủ nhắm vào để tấn công Ong. Nhưng TT đã cố gắng hết sức mình để thuyết phục dân chúng Mỹ, rằng chiến tranh chống khủng bố là cần, đúng để bảo vệ lối sống tự do, dân chủ của Mỹ. Iraq chỉ là một chiến trường. Với tư cách và phương tiện của một tổng thống, Ong có nhiều ưu thế biện giải, lấy lòng hơn đối lập.
Sáu , tất cả cuộc bầu cử nửa nhiệm kỳ tổng thống đều xảy ra ở địa phương dù là bầu dân biểu, nghị sĩ liên hay tiểu bang hay hội đồng thành phố. Truyền thông đại chúng, báo chí, phát thanh, phát hình lớn, hệ thống lớn bằng tiếng Mỹ đều làm việc xa địa phương, chú ý đến chánh trị cao, chuyện ngoại giao, chiến tranh và hòa bình, tổng thống, chủ tịch quốc hội, bộ trưởng, toàn thứ "bự", nên biết rất ít nếu không muốn nói không biết rõ nhân tình thế thái, quyền lợi, nguyện vọng đa dạng của địa phương. Ngay những câu hỏi của truyền thông để thăm dò cũng chỉ có tính toàn quốc, chung chung. Bình luận chánh trị, đi tin nhiều cho Đảng này, ứng cử viên kia, không có thể hướng dẫn dư luận được vì đọc giả và khán thính giả ít nhiều đã biết khuynh hướng đảng tính và lập trường của các hệ thống truyền thông ở Mỹ. Nói chung, truyền thông đại chúng không phải là tấm gương cho cử tri soi. Cử tri đông hơn, sát hơn, là người trong cuộc bầu cử đã từng tự khăng định và minh chứng thông minh hơn, thực tế hơn những nhà báo, những cổ động viên đen và xám trên truyền thông đại chúng. Chưa chắc đổ một số tiền kếch xù cho truyền thông đại chúng là thắng cử.
Thắng cử là nhờ đi sát với đơn vị và nguyện vọng của cử tri bầu ra mình và phục vụ cử trí đúng mức nếu tái ứng cử.