Mỗi năm khoảng 1,100 sinh viên ở Hoa Kỳ tự vẫn và khoảng 24,000 sinh viên muốn tự vẫn hàng năm. Nghiên cứu trong số 10 triệu sinh viên Mỹ nhập học năm 2003. Tỉ số sinh viên tự vẫn trong các đại học là 7.5/100,000 người, tương đương với phân nửa (50%) trường hợp sinh viên không tự vẫn. Nạn tự vẫn ở Mỹ đứng hàng 3 tử vong sau thương tích hay những tai nạn trong gia đình, tuổi còn trẻ từ 15 tới 24.
Khoảng 10% sinh viên tự vẫn thường đã có tư tưởng tự vẫn một năm về trước. Khoảng 1.5% sinh viên đại học cấp dưới vẫn còn ý định muốn tự vẫn. Nhiều sinh viên tự vẫn bất chợt hành động. Sinh viên tự vẫn thường ăn ở ngoài đại học xá và ít khi đi khám bệnh tâm thần. Kết quả nghiên cứu cho biết bây giờ sinh viên đại học Mỹ bị bệnh tâm thần nhiều hơn trước đây.
Trong năm 2005, tường trình cho biết khoảng 25% sinh viên thăm bệnh tâm thần và uống thuốc trị bệnh tâm thần. Con số này cao hơn trước đây, 20% trong năm 2003 và 9% trong năm 1994. 43% sinh viên có vấn đề tâm lý, 9% bị bệnh trầm trọng đến nỗi không thể tiếp tục đi học được. Khoảng 20% sinh viên tự vẫn đã từng khám bệnh tâm thần trước đó. Sinh viên nghĩ là mình bị căng thẳng hơn là bị bệnh ưu trầm và đã không tìm kiếm bác sĩ điều trị. Vài sinh viên tự mình tìm cách giải quyết bằng rượu hay ma túy.
Tại Đại Học Harvard hiện có một chương trình giảm nguy cơ bệnh tâm thần bằng những phương pháp làm thư dãn, như xoa nắn bắp thịt ở vai hay lưng sau khi sinh viên vừa thi cử, có chương trình giải thích hiện tượng mất ngủ cho sinh viên, giảm căng thẳng, tạo điều kiện quan hệ tương kính vơí nhau, cho biết hậu quả uống rượu ra sao, hay cho sinh viên tự thử nghiệm những đề tài truy tầm ưu trầm, hiểu rõ những căng thẳng hay các bệnh tâm thần khác.
Chú thích: Hiện nay, số sinh viên tử vong vì tự vẫn đứng hàng thứ 2 tại Hoa Kỳ. Nguyên nhân số một là do ưu trầm. Khi lên đại học, sinh viên phải đối diện với những cảm giác cô đơn, như thấy mất thiếu điều gì, tâm trí lẫn lộn, buồn chán, căng thẳng. Đi sâu hơn sẽ bị ưu trầm. 1/5 sinh viên cảm thấy bị ưu trầm và 6% muốn điều trị ưu trầm. Sinh viên đại học ở Mỹ nên biết hiện giờ có nhiều chương trình phòng ngừa tự vẫn. Nếu bị ưu trầm thì phải kiếm bác sĩ ngay. Sinh viên cũng có thể đọc và tìm hiểu những chương trình ngừa tự vẫn thường thấy trong các Trang Web để biết khi nào sớm tìm bác sĩ điều trị. Tài liệu Đại Học Y Khoa Harvard, 2006 (Y Dược Ngày Nay).
Bác sĩ Thái Minh Trung, Giáo Sư Đại Học Y Khoa Irvine, Chuyên về Bệnh Tâm Thần, bàn luận: Lứa tuổi teenage là lứa tuổi gặp rất nhiều khó khăn về tâm lý vì các em đang sống vào một giai đoạn chuyển tiếp (transitional stage). Đó là giai đoạn mà đứa trẻ phải đương đầu với nhiều trách nhiệm vơí đầu óc non nớt ít kinh nghiệm. Các em bị rất nhiều stress. Khi đòi hỏi nhiều mà khả năng đáp ứng kém sẽ sanh ra stress. Stress dễ dẫn đến những bịnh tâm thần.
Nếu các em không hiểu rằng những triệu chứng tâm thần có thể trị được thì cứ để đó mà chịu trận. Mặt khác, sự tranh đua về học vấn ở Đại học rất gay gắt. Sự lộ mặt của triệu chứng tâm thần được coi như là sự yếu đuối, nên các em cố che đậy những triệu chứng của stress mà không dám lộ mặt xin giúp đỡ. Khi triệu chứng tâm thần trở nên trầm trọng ảnh hưởng đến học vấn thì các em bị mất hy vọng (hopeless), bị mặc cảm tự ti (poor self esteem) và nghĩ rằng không ai sẽ giúp được mình (helpless).
Những triệu chứng vừa liệt kê làm tăng trầm cảm (depression) như lửa mà gặp rơm. Sự thất vọng và triệu chứng trầm cảm, lo âu quá độ là nguyên nhân chính dẫn đến tự tử. Những nguyên nhân khác đóng góp vào bịnh trầm cảm là ngủ ít, lạm dụng rươụ và xì ke ma túy, xa nhà và xa gia đình, bị thất tình, có chửa hoang đi phá thai, thi không được điểm như ý muốn hoặc thi rớt.
Sinh viên nam thì hay dùng rượu để giải quyết những căng thẳng lo âu và sau đó sẽ bị mất ngủ, trí nhớ kém, học vấn đi xuống dốc. Đây là những yếu tố tạo trầm cảm. Say rượu làm mất tự chủ nên dễ đưa đến hành động tự tử khi bị trầm cảm.
Có hai cách lập luận về con sồ bịnh tâm thần ngày càng cao. Có thể sinh viên hiểu nhiều hơn về bịnh tâm thần nên chấp nhận việc đi khám bịnh, đại học có chương trình giúp đỡ sinh viên bịnh tâm thần (mental disability programs). Cũng có thể mưu sinh ngày càng khó, tranh đua gay gắt hơn trước và công ăn việc làm ít hơn mà học phí thì càng ngày càng tăng nên tạo ra rất nhiều stress.
Trung Minh Thai, M.D., Associate Clinical Professor, Department of Psychiatry, UCI Medical Center (714) 456 3790
Thêm Tin: Trong một tường trình vừa xuất bản trong báo Archives of General Psychiatry, August 2006, cho biết trẻ em từ 6 tới 18 tuổi, bị bệnh ưu trầm nặng, uống thuốc trị ưu trầm, có nguy cơ tự vẫn nhiều hơn những trẻ em không uống thuốc trị ưu trầm. (YDược Ngày Nay).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3915; E-mail: nmtran@hotmail.com; Y Dược Ngày Nay: www.yduocngaynay.com