TNS Grassley: Mặc Cảm Tội Lỗi Cuộc Chiến VN Đã Giúp Thương Ước
WASHINGTON -- Các viên chức Mỹ lại đưa thêm nhiều lý do mới để có cớ mau chóng đưa VN sớm gia nhập WTO.
Hãng thông tấn Reuters hôm Thứ Tư dẫn lời 1 lãnh tụ Cộng Hòa -- Thượng Nghị Sĩ Charles Grassley (Iowa), chủ tịch Ủy Ban Tài Chánh Thượng Viện -- nói rằng mặc cảm tội lỗi về việc Mỹ tham chiến ở VN sẽ giúp thúc đẩy thương ước Mỹ-VN sớm qua quốc hội, nhưng vài trở ngại vẫn còn.
Trong khi đó, phóng viên Jeffrey Kosseff của thông tấn Newhouse News Service ghi nhận hôm Thứ Tư rằng “nhiều vị dân cử lo sợ Mỹ lệ thuộc hàng nhập cảng từ Trung Quốc quá nhiều, nên bây giờ phải tăng cường nhập hàng từ VN để quân bình lại.”
Nghĩa là, quá nhiều lý do viện ra hôm Thứ Tư để Mỹ phải đẩy VN vào WTO sớm. Sau đây là dịch 2 bản tin.
TNS Grassley nói với Reuters, “Luôn luôn có 1 cảm giác tội lỗi về VN quanh đây bởi vaì người, và tôi nghĩ [thương ước] đang đáp ứng lại cảm giác tôị lỗi đó, nhiều như là lợi thế kinh tế của nó [thương ước].”
Ông noí Ủy Ban của ông sẽ mở điều trần vào tuần lễ thứ nhì trong tháng 7 về thương ước mở đường cho VN vào WTO.
Một phần trong thương lượng là Mỹ phải chấp thuận quan hệ bình thường mậu dịch vĩnh viễn với VN thay vì phải giữ quy chế gia hạn mỗi năm.
Thượng Viện có bỏ phiếu cho thương ước trước kỳ nghỉ hè tháng 8 hay không còn tùy theo số lượng bản văn tu chính mà các thượng nghị sĩ dự trù gắn kèm theo, bởi vì sẽ có nhiều nhu cầu hoàn tất trong tháng tới, theo lời Grassley.
Tòa Bạch Ốc thì muốn Quốc Hội chấp thuận thương ước trước khi TT Bush đi VN vào tháng 11 để họp với các lãnh tụ Á Châu Thái Bình Dương. Hà Nội muốn trở thành thành viên WTO trước thượng đỉnh APEC.
Bạch Ốc “có thể sẽ làm mọi chuyện dễ dàng hơn một chút” bằng cách kêu gọi các vị dân cử đừng gài vào dự luật các tu chính liên hệ về mậu dịch Trung Quốc hay các quan ngại lĩnh vực cụ thể, thí dụ như may dệt, theo lời Grassley.
Thương ước đưa VN vào WTO buộc VN hạ rào thuế quan và các rào cản khác cho hàng và dịch vụ Mỹ vào thị trừơng VN. Nhưng Grassley nói di sản Cuộc Chiến VN, kết thúc hồi 1975, có lẽ là lý do lớn mà nhiều vị dân cử bỏ phiếu thuận [thương ước].
Hãng thông tấn Newhouse khai thác tin kiểu khác: Vì qúôc hội nới rộng mậu dịch với TQ 6 năm trứơc, nên nhập cảng hàng TQ vào Mỹ tăng gấp đôi, và bây giờ nhiều dân cử sợ là Mỹ quá lệ thuộc vào hàng hóa TQ, nên muốn tăng thương mại với VN.
TNS Gordon Smith, Cộng Hòa-Ore., nói khi trình dự luật đưa VN vào WTO, “Tôi tin vì quyền lợi quốc gia là đừng có đưa chung trứng vào 1 giỏ của TQ.”
Trở ngại thực ra rất nhiều: còn nhiều kế hoạch nới rộng thương mại bị kẹt ở qúôc hội; các đối thủ chỉ ra nhiều nan đề trong các thương ước, kể cả việc thợ Mỹ mất việc làm, các vi phạm nhân quyền và tiêu chuẩn môi sinh yếu kém ở nứơc khác.
“Nhiều tổ chức không thích chính sách mậu dịch Hoa Kỳ, vì không có sự tôn trọng quyền lao động và bảo vệ môi sinh tại các nứơc đối tác,” theo lời Larry Weiss, giám đốc điều hành của Citizens Trade Campaign (CTC), một liên minh gồm nhiều công đoàn, nhóm tiêu thụ và hội môi sinh.
Nhưng không giống như các dự luật thương mại khác, dự luật về VN của Smith được cả 2 đảng ủng hộ. Ông bảo trợ dự luật cùng TNS Max Baucus (vị lãnh tụ Dân Chủ trong Ủy Ban Tài Chánh, nơi phụ trách về giao thương).
Và DB Earl Blumenauer và Darlene Hooley (cùng Dân Chủ - OR.) đồng bảo trợ dự luật tương tự ở Hạ Viện.
“Tôi nghĩ rất cần hàn gắn vết thương còn laị từ VN,” theo lời Blumenauer, người tới VN năm 2000 với TT Clinton. “Đây là cơ hội để đối trọng chiến lược với người Trung Quốc. Chúng ta đang thực hiện các tiến triển phi thường với VN.”
Nhiều công ty đã hỗ trợ cho thương ước Mỹ-Việt này. Như hãng giày Nike hiện có 25% sản lượng làm từ VN.
Nhưng như thế cũng làm giảm ảnh hưởng của Mỹ về áp lực nhân quyền tại VN, theo lời Thea Lee, giám đốc chính sách của liên minh công đoàn AFL-CIO.
“Chúng ta sẽ mất vài sự linh động đối với các công cụ [áp lực nhân quyền] mà chúng ta có thể sử dụng,” theo lời Lee.
Nhưng TNS Smith lại chống chế, “Đưa VN vào các tiêu chuẩn qúôc tế, theo luật pháp WTO, không làm đòn bẫy [nhân quyền] yếu đi. Mà còn làm tốt hơn nữa,” theo lời Smith, người dẫn 1 phaí đoàn quốc hội đi VN năm ngoái.
Các công đoàn thì sợ là tăng mậu dịch có thể là dân Mỹ mất thêm việc làm, và làm tăng thâm thủng mậu dịch.
Thâm thủng mậu dịch giữa Mỹ với TQ đã tăng từ $83.8 tỉ đô năm 2000 lên tới $201.5 tỉ đô năm 2005.
Các chuyên gia mậu dịch nói dự luật Smith sẽ cho các hãng Mỹ nguồn khác về hàng hóa -- họ ghi nhận chi phí [lao động, thành phẩm] tại TQ đã tăng khi mậu dịch tăng.
“Khi phát triển kinh tế tăng khắp khu vực đó sau 30 năm mở cửa kinh tế, giai cấp trung lưu [Trung Quốc] nhiều thêm, lương [thợ TQ] tăng thêm, và đó không còn là nơi chi phí thấp như trước nữa,” theo lời Christopher Runckel, chủ tịch hãng Runckel & Associates, một hãng tham vấn trụ sở ở Portland, Ore., chuyên giúp các hãng vào Á Châu làm ăn. “Việt Nam chủ yếu rẻ hơn về mặt lao động.”
Nhưng Runckel nói, chi phí chở hàng từ VN sang lại đắt hơn từ TQ.
Runskel nói, bên cạnh các chi phí cứu xét, việc dựa hầu hết vào 1 nứơc thì có cơ nguy có thể xảy ra, “Không ai muốn dựa vào chỉ 1 nguồn hay 1 vùng, để phòng trường hợp có thiên tai, động đất, chuyển động chính trị, hay ngay cả khi tranh chấp mậu dịch.”