Viết Cho Em<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />
Em à! Giữa cảnh đời xa xứ
Tuyết lạnh bao quanh suốt bốn mùa
Lòng em biết có còn thương nhớ
Năm tháng Sài Gòn nắng với mưa…
Mười mấy năm, đời vẫn lạnh trôi
Tình xưa ý cũ mãi xa xôi
Bên con em xếp lòng nhung nhớ
Người đã quên và chuyện đã rồi!
Ngày em bước xuống phi trường lạ
<"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />
Chồng em chờ đón, trời băng giá
Ý buổi tương phùng – lạnh tuyết tan!
Em cảm ơn, trời nặng thấp mây
Mười năm chờ đợi để hôm nay
Nhìn con em thấy lòng thương cảm
Bến cũ sao đò chếnh choáng say…
Để rồi trang giấy đầy ân nghĩa
Xóa hết đi, viết lại chữ đầu
Nụ cười nào nở giờ ly biệt
Cắn chặt răng, đậm nét chữ sầu!
Mười mấy năm, đường em cứ bước
Thương con nay tuổi đã trưởng thành
Thỉnh thoảng giữa trời đông rét buốt
Em có buồn chăn chiếu mỏng manh"!
Ta cảm đời em gợi ý thơ
Nắng mưa xuân sắc sớm phai mờ
Bước em giờ đã quen đường lạ
Chữ nhớ thương xưa chỉ hững hờ…
Nhìn con sắp sửa nên gia thất
Ta biết lòng em thoáng ý vui
Cả một trời xuân em đánh mất
Đất khách rơi rơi…tuyết ngậm ngùi.
Thy Lan Thảo
*
Nhớ Sáng Tháng Ba Ở Huế
Gió Huế tháng ba mát lạnh,
Sáng Huế tháng ba non xanh,
Như lộc cây bàng chớm nụ,
Như tình yêu em và anh.
Hơi ấm từ Thuận An đến,
Hơi nước rừng Kim Phụng sang,
Quyện tròn khói mây mờ ảo,
Đuổi nhau đường dọc theo sông.
Vừa qua khỏi cầu Đông Ba,
Chơi vơi vùng sương mù dậy,
Hương thơm ngào ngạt ngây người,
Sầu đông lặng im một dãy.
Hương thơm tháng ba phố Huế,
Cành cây chi chít giao hoa,
Tóc em li ti sương sớm,
Tiếng cười vang vọng xa xa.
Ba mươi mốt năm nhớ Huế,
Nghe tin em vừa qua đời,
Kiếp người mong manh ngắn ngủi,
Chừ nghe Huế rất xa xôi!
Hoàng Yến
*
Nhớ Em Mười Sáu (*)
Tháng Tư Đen 2006
Tháng Tư nhớ chuyện tan hàng
Nghe câu Vọng Cổ lòng càng buồn thêm
Nhớ hoài những phiên gác đêm
Ôm Em Mười Sáu... êm đềm mát tay
Cùng em thức trắng canh dài
Cùng em gian khổ miệt mài yêu thương
Cùng em gìn giữ quê hương
Cho dân yên ổn, phố phường bình an
Ngờ đâu lệnh bắt đầu hàng
Bỏ Em Mười Sáu... bỏ nàng bơ vơ
Em ơi biết đến bao giờ
Chúng mình có thể bất ngờ gần nhau
Thôi đành mang nỗi thương đau
Hẹn Em Mười Sáu kiếp sau tương phùng.
Phương Hoài Sơn
(*) Súng trường M16
*
Bâng Khuâng Thuở ấy
Có chàng trai vừa nhận đời Thuỷ Thủ
Tóc mây bồng ôm gợn sóng mênh mông
Bước phiêu lưu vời vợi xa trông
Anh lặng ngắm mây hồng in bóng nước
Rồi mơ ước chuyện tình bao Thu trước
Nghìn Thu sau không đến được bến bờ
Dệt mộng vàng ôm kín những vần thơ
Ngày tháng xa xôi anh tiếc nhớ
Vùng đất lạ bước chân ai bỡ ngỡ
Đi bên em lòng rộn rã dập dồn
Trên cát vàng in vội bước chân son
Trong đêm vắng sương rơi vương mái tóc
Em hiện hữu mắt môi viền thạch ngọc
Mình có nhau trong một quảng đường đời
Đã xa rồi bao năm tháng chơi vơi
Ngày gặp lại làm sao ta có được
Bởi đời anh như con tàu trên nước
Bước cheo leo theo ngọn sóng bạc đầu
Vượt Trùng Dương nghìn hải lý về đâu
Miền đất hứa ngày xưa nay đã mất
Tôn Thất Phú Sĩ
*
Lệ Châu
Đã mấy thu rồi, hả bể dâu"
Những hình bóng cũ nay về đâu"
Có ai đốt lại lò hương ấy
Mà nhớ vô cùng, hỡi Lệ-Châu!
Ta nhớ em như nhớ tháng ba:
Ngày giờ có đó, nghĩ không ra!
Chính ta chẳng hiểu mơ hay tỉnh;
Ta ở đây mà nhớ chính ta!
Ta nhớ ta là một tiếng im,
Con thuyền không bến, máu không tim,
Không hoa cho một làn hương quyện,
Không tổ nương nhờ một cánh chim!
Ta có đầu ta - một thánh-thư:
Biết đường, đâu ngại ngã ba, tư!
Lòng ta có lửa mà không bếp,
Như thiếu trùng-dương cho hải-ngư!
Thiếu một thần-giao, một cảm-thông;
Đời không tri-kỷ, không tâm-đồng;
Bơ-vơ như trận kình nghê-chiến:
Biển cả tung-hoành một lão-ông!
Rồi bỗng đâu đây giữa gió khơi
Có em bỗng gọi, có ta "ơi!"
Thuyền như nhắm bến, chim tìm tổ,
Đêm muốn hừng đông, hận muốn vơi ...
Em đến - gần mà như muôn trùng,
Không tên, không lấy cả hình-dung...
Nhưng em đã đến, bằng xương thịt,
Đã sưởi lòng ta ... ấm lạ-lùng!
Em có là tiên... hay là... ma
Thì em cũng đã có yêu ta!
Tình em là một nguồn thi-hứng:
Bút rỉ mười năm... lại nở hoa!
Em đã theo ta mỗi bước chân,
Hòa trong hơi thở, nhập trong gân!
Có em là bạn... nên từ đó
Ta có niềm vui tự bản-thân...
Nhưng, bỗng tứ bề nổi bão đêm:
Kình-ngư còn lại bộ xương lem!
Đất thành hoang đảo! dân thành rợ!
Ngư-phủ vào tù, lạc dấu em...
Nỗi nước khôn khuây, lại nỗi nhà,
Nỗi mình khắc-khoải một mình ta!
Bao nhiêu kỷ-niệm vào tro bụi
Như những kê vàng, quá-khứ xa ...
Ôi! Những ngày xanh, những ước mơ
Tan như ảo-ảnh mống trời mưa!
Thời-gian liệm lấp vào quên-lãng
Những mộng vàng son hóa mộng hờ!
Rồi có hôm nào như hôm nay:
Gió nào gợn sóng, lá nào bay ...
Cho ta gợi lại trong tâm-tưởng
Một thoáng ân-tình, thoáng rượu say...
Thanh Thanh
*
Đêm Sầu
Lồng lộng đêm sa, trăng rụng trắng
Hiên khuya lốm đốm mảnh trăng tan
Bóng ai phơ phất gầy như liễu
Mắt ướt tay nâng chén nguyệt tàn
Hồ đêm lóng lánh ngàn sao rụng
Sáo trúc thuyền trăng thánh thót vang
Ngàn lau xao xác triền hoang lạnh
Gió động ngàn dâu, sầu chứa chan!
Bạch Loan
*
Lời Bông Đùa Cần Thiết
Đêm ngọt ngào hương động
Đưa ta qua nửa đoạn đường tình
Chẳng giật mình hờn dỗi
Trăng sao biệt xứ vô hình
Rồi mốt mai dẫu muộn
Anh về ngang núi xưa
Nhìn mưa hoa xuống tóc
Đâu người thưa thớt thưa!
Gõ cửa lòng thế kỷ
Vang vọng lời bông đùa
Truyền ấm môi ngục tối
Oan hồn hát thánh ca
Phạm Tường
*
Ý Thương
Từ đó đôi bờ cách Đại dương
Tâm tư mòn mỏi suốt con đường
Biết ai tâm sự, niềm u ẩn
Chia sẻ cùng tôi kỷ niệm buồn
Đất khách trông mong hoài cách biệt
Quê nhà nỗi nhớ vạn trùng dương
Đò xưa bến vắng còn đâu nữa
Để mảnh tình ta với đoạn trường
Giờ đây cuộc sống đổi thay nhiều
Lối hẹn đâu rồi những tiếng yêu
Hình bóng năm xưa mờ nắng nhạt
Còn đâu cảnh cũ buổi sương chiều
Vần thơ tâm sự, lòng mơ tưởng
Dòng nhạc u buồn, nỗi quạnh hiu
Giấy trắng bút nghiên còn đọng mực
Tìm đâu kỷ niệm, một lần yêu...
Nguyễn Vạn Thắng
*
Tâm Sự Người Tÿ Nạn Ngày 30-4
Từ ngày phải bỏ nước lưu vong,
Xa cách quê hương quá khổ lòng!
Ở tạm nơi quê người vất vưởng,
Sống nhờ tại đất khách long đong!
Không tròn việc dưỡng nuôi cha mẹ,
Chẳng vẹn điều thờ phượng tổ tông!
Héo hắt tâm can người tÿ nạn,
Từ ngày phải bỏ nước lưu vong!
Cô Gia
*
Tâm tình người lạc xứ
Nhớ cảnh năm xưa
Một ngày thất trận
Nắng lịm tắt trên bầu trời hiu quạnh
Khói sương mờ phủ kín cả không gian
Hồn bâng khuâng thương vận nước nghiệt oan
Tim bật khóc, khung trời đầy ai oán
Cuộc đời ly tán
Biển sóng mênh mông
Thuyền lênh đênh nhìn bến cũ hoài mong
Lòng khắc khoải, đớn đau, đời lạc xứ
Cố quên đi lòng bên lòng tự nhủ
Gắng tìm nhau sưởi ấm khối tình chung
Cách biệt nghìn trùng
Mong hoa tình nở
Triệu con tim làm sao chung nhịp thở
Thắm tình người ưu ái đến tìm nhau
Chia xẻ niềm đau
Dựng xây hy vọng
Dẫu biển đời khốn khổ với oan khiên
Ta cùng nhau xây giấc mộng đoàn viên
Trên đất mẹ dấu yêu, tình dân tộc
Đi về đâu hỡi Nam Quan, Bản Giốc
Xót xa lòng ngấn lệ suối Phi Khanh
Yên ấm sao đành
Quê hương dần mất
Đứng lên đi giống Tiên Rồng bất khuất
Hãy tìm về hun đúc triệu con tim
Trao cho nhau trọn vẹn những niềm tin
Cùng tiến bước, chia nhau từng hơi thở
Sẽ có một ngày
Hoa tình rộn nở
Trang sử hùng tô đậm chữ liệt oanh
Dòng máu thắm rửa hờn căm tổ quốc
Kết tin yêu cùng xoay dời vận nước
Vén mây trời, trăng sáng rọi lung linh
Xé đêm đen tạo lại ánh bình minh
Cờ lộng gió quê hương ngày hội mới.
Toàn dân ngóng đợi
Về bến yêu thương
Bướm tung tăng hoa gấm khắp nẻo đường
Bầy én lượn mùa xuân nồng hội ngộ
Khắp non sông, qua rồi, cơn thống khổ
Kết hoa lòng xây dựng lại quê hương
Trao cho nhau trọn vẹn chữ yêu thương
Dòng nước mắt cuộn trào dâng hạnh phúc.
Phạm Thanh Phương
*
Bài Ca Tiếp Lửa
(Riêng cho ngày Quốc hận 30/4 - xin gởi về Quê hương và Đồng bào Việt
Có những con đường chưa hề đi tới
Có những anh em chưa gặp bao giờ
Mà một ngày huyền diệu tựa vần thơ
Tụ họp lại như gia đình thân mến
Chị tiểu bang gần, xe hơi chạy đến
Anh cách đại dương lướt gió bay về
Ơi, một Diên Hồng thôi thúc tình quê
Xin chung sức, chung lòng, cùng quyết chiến!
Hùng tráng quốc ca, đau buồn tưởng niệm
Bên những bài thơ tranh đấu kiên cường
Đất nước sôi lòng Nguyễn Huệ, Trưng Vương
Vì tổ quốc mà sông dời , núi chuyển
Vì mong ước của người dân nước Việt
Đã vang lên từ khắp nẻo địa cầu
Từ tháng Tư nào, áp bức, hờn đau
Xô dân tộc vào trường thiên thống hận!
Người ở lại đã sống đời thú vật
Không tự do, không dân chủ, nhân quyền
Tài sản ruộng vườn từ thuở Tổ Tiên
Bỗng một buổi, đảng bảo là của.... đảng!
Phụ nữ, trẻ em, chợ người, đảng bán
Chẳng khác con buôn bán vịt, bán gà
Ôi cái thiên đường quái đản, gian ngoa
Như chuyện dâng Tàu Nam Quan, Bản Giốc....!
Kẻ ra đi, xác trôi trên ngọn sóng
Cùng với tang thương mảnh vụn con tàu
Hoặc kinh hoàng hải tặc bắt theo sau
Rồi mất biệt trên cõi đời dấu vết!
Ai may mắn, thắng tử thần, thoát chết
Thì Tự Do, ôi, giá đắt vô cùng!
Đắt bởi biển Đông sóng gió hãi hùng
Bởi súng công an, búa dao hải tặc...
Dài mấy chục năm quê người lưu lạc
Nhưng hôm nay, họp mặt, một gia đình
Cảm xúc dâng trào, ánh nến lung linh
Khi hát quốc ca trong hờn vong quốc
Hãy thêm lửa, tiếp tay người trong nước
Đang đấu tranh, đối diện với tà quyền
Lừa mị, độc tài, tàn bạo, đảo điên
Phải gục chết, ngày ba miền quật khởi!
Ngô Minh Hằng
*
Làm Sao Biết Được Đứa Văn Nô
Làm sao biết được đứa văn nô"
Thú thật chuyện ni dễ thấy mồ:
Lải nhải tấn công người chống cộng
Ồn ào ve vuốt lũ bưng bô
Quốc gia đả cộng thì moi móc
Cộng sản buôn dân lại ngó lơ
Thơ phú ru đời, "phi chính trị"
Rõ ràng chính nó: đứa văn nô!
Trần Chiêu Yên
*
Làm Sao Biết Được Đứa Bưng Bô"
Kính họa bài thơ "Làm Sao Biết Được Đứa Văn Nô" của Trần Chiêu Yên đại gia
Bưng bô giống hệt đứa "Văn Nô"
Như qủy dạ xoa mới đội mồ
Chửi Chúa mắng cha mồm dẻo nhẹo
Thờ Hồ khen cộng miệng bi bô
Sao vàng nền đỏ, anh "hồ hởi"
Sọc đỏ cờ vàng, chị giả lơ
Len lỏi diễn đàn hòng kết nghĩa
NTCC
*
Phải Đồng Loạt Đứng Lên Hạ Cờ Máu!
Kính tặng sinh viên Việt
Tất cả hãy đồng loạt đứng lên!
Cùng sinh viên gióng tiếng Nhân Quyền
Quê nhà dân nước tròng nô lệ
Đất khách làm người khó đứng yên!
Quyết chiến! Tâm thành như súng lệnh
Đương đầu! Chí quyết tựa cung tên!
Thiên Vương Phù Đổng vung roi sắt
Cờ Máu đốn phăng giữa trận tiền!
Xà Beng
*
Mùa Quốc Hận Tháng Tư Đen
Kính họa bài "Mùa Quốc Hận 2006" của Tiểu Bảo.
Chao ơi lũ rắn - Rắn đìu hiu
Bảng đỏ cấm đi - Đi ngược chiều
Tổ quốc tang thương vì độc đảng
Muôn đân đói rách bởi luân triều
Trung ương, cán lớn tiền như nước
Làng bản, thần dân của chắt chiu
Cứu nước toàn dân mau đứng dậy
Chớ như "Cung oán Nguyễn Gia Thiều".
Quốc Lân
*
Sài Gòn Muôn Năm
Sàigòn, trả lại tên Sàigòn,
Tên đã gắn liền với nước non.
Hòn ngọc Viễn Đông luôn sáng chói,
Sàigòn muôn thuở mãi vàng son.
Không ai được phép thay tên khác,
Cho đến ngàn sau mãi mãi còn
Dân tộc Việt
Sàigòn! Đẹp lắm hỡi Sàigòn!
Phương Hoài Sơn
*
Niềm Đau Hôm Nay
Kính tặng những người lính già VNCH trên đất Mỹ.
Anh đến nơi này miền Đông Bắc Mỹ,
Trời Boston tuyết đổ lạnh đêm buồn,
Đời tha hương nghẹn lên tiếng khóc,
Thân đã già tóc đã ngả màu sương!
Đoạn đường đời đến đây là đoạn cuối"
Hay phải còn trôi nổi đến phương nào"
Làm sao biết" Ngày về quê hương nhỉ"
Hay phải chờ đất tổ đổi thay màu!
Ngày khôn lớn, anh đi làm lính chiến.
Theo cuộc đời chinh chiến khắp muôn phương,
Bao mộng ước đã tàn theo binh biến,
Đành giã từ vũ khí biệt quê hương!
Tháng Tư đó! Quê nhà đầy tang tóc
Thương bạn bè, khóc hận vẫn chưa nguôi
Máu tim anh đang ngậm hờn vong quốc
Cứ trào tuôn trong huyết quản hận đời.
Thời lao lý những năm dài chợt nhớ
Từ Ba Sao, Thanh Hóa- Hoàng Liên Sơn
Những địa danh đi vào trang lệ sử
Mỗi lần nghe sôi sục chữ căm hờn
Anh đến nơi này miền Đông Bắc Mỹ
Mùa tuyết rơi phủ trắng cả khung trời
Nhìn tương lai mịt mờ xa vạn kỷ
Anh thấy đau thương ôn lại quãng đời
Anh ở nơi này năm chờ tháng đợi
Những mùa đông buốt giá nhói tim anh
Con đường nhân nghiã tìm chưa ra lối
Bốn bể một nhà- Tình nghiã đệ huynh
Anh làm sao hiểu được tình nhân thế"
Biết nhắn cùng ai hỡi đất trời
Biết làm sao gặp đươc người tri kỷ
Để kết tình thương giữa cuộc đời
Thanh Khâm
*
Mối Nhục Thù
Trời thảm đất sầu ngày tháng tư
Cộng Nô soán chiếm hận nghìn thu
SƠN HÀ một cõi đầy tang tóc
ĐẤT NƯỚC ba miền khắp ngục tù
DÂN nuốt đau thương đành tỵ nạn
DÂN ôm cay đắng phải hồi tu
Tháng TƯ ngày ấy không thay đổi
QUỐC HẬN mang theo mối nhục thù
Tha Nhân
*
Vịnh Đứa Ba Hoa
Đám nào cũng có mặt thằng nầy
"Hòa Hợp" ồn ào chính NÓ đây
Lớn tiếng vu oan chê bọn xấu
Rộng mồm bốc phét tưởng mình hay
Huênh hoang tự đại nên sa chước
Hấp tấp tự cao mới lún lầy
Nó nói ngon lành sao ngửi háng
Còn khoe thành tích lạ lùng thay!
TamThang3
*
Lời Cô Gia Nói Quả Không Sai
Kính họa vận bài “Thùng rỗng kêu to” ở SGT số 458 viết nhân đọc bài “Biết để làm gì” trong mục “Hương Giáo đề thơ” (SGT 457).
Lời Cô Gia nói quả không sai,
“Thùng rỗng kêu to”, cứ tưởng tài.
Mần tội xóm giềng thêm điếc ráy,
Khiến cho thiên hạ phải cau mày.
Nghe hù, nghe dọa mà ngao ngán,
Thấy dập thấy trù những bẻ bai.
“Thùng rỗng kêu to” ghê thiệt chớ,
Lời Cô Gia nói quả không sai.
*
Nhân Cách Hóa Cái Thùng
Đứa Nam Man mượn bộ vần trong bài “Thùng rỗng kêu to” của Cô Gia đại gia ở mục “Thơ thẩn mà chơi”, SGT số 458, (sai, tài, mày, bai, sai) để viết thêm bài này.
Tên này thiệt đáng... để tay sai,
Vừa dốt, vừa ngu, lại bất tài.
Ngó hắn nhiều khi em chóng mặt,
Nhìn va lắm lúc tớ chau mày.
Luống thương nó, đứa sao ngờ nghệch,
Mà giận ai, người khéo bẻ bai.
Vừa sử dụng y vừa đánh giá,
Tên này thiệt đáng... để tay sai!
*
Sao Không Xuống Đường “Trâu Đánh”"
Đọc bản tin “Phỉ báng tôn giáo đến thế là cùng: tượng Hồ Chí Minh ngồi trên chính điện với Phật” (DV 739) được biết chùa mang tên Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương mới khánh thành ngày 18.3.06. Trong bản tin cho biết “tượng Hồ Chí Minh sơn son thếp vàng được đặt trước tượng Phật Thích Ca trên Phật đài trong chính điện”. Đọc tin trên, đứa Nam Man viết thêm bài này.
Trong ngoài có cả lố sư thầy,
Và, biết bao nhiêu … đây.
Bữa đó không ai lên tiếng hết,
Hôm rồi có đứa ngậm mồm ngay.
Xưa kia chắc khó yên như vậy,
Trước đó nào cam chịu thế này.
Ắt có “xuống đường trâu đánh” hỉ,
Nhưng giờ... thì chịu phép xuôi tay!"
*
Tâm Sự Với Con Nhân Ngày 30 Tháng Tư
Nhân đọc bài “Sinh ngày 30 tháng Tư” của Ngô Nhân Dụng trong VL số 1969 mà đứa Nam Man viết bài này để tâm sự với thằng con trai là Lâm Hàng Cửu Luân (tự Chú Bi).
Trong những kẻ sanh sau tháng này,
Không ngờ cũng có mặt con đây.
Vừa bừng mắt, đã nghe thù hận,
Mới lọt lòng là nếm đắng cay.
Sớm biết suy tư đời tÿ nạn,
Đành cam chấp nhận cảnh lưu đày.
- Từ con theo vận nước trôi nổi,
Có hận cháy thành chịu vạ lây"