Bài 3: Ván Bài Cuối Cùng<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />
Thay Lời kết: Nhìn Baghdad, Nhớ Sàigòn
“Allah akbar, Allah akbar” (Chúa là cao cả, Chúa là uy quyền), cả trăm ngàn người quỳ gối, úp mặt xuống đất cầu xin. Những tà áo dài trắng bay lất phất theo chiều gió như cố quạt đi sức nóng gay gắt của miền sa mạc. Một chiếc quan tài bằng gỗ đơn sơ có phủ tấm lông lạc đà mầu nâu được nhóm người đàn ông trịnh trọng khiêng trên vai tiến vào giáo đường. Khi quan tài đã đưa tới góc chân tường về phía đông, tiếng than thở ai oán bắt đầu rên rỉ. Tân Vương Khalid không cầm được nước mắt, ôm mặt nức nở khi thi hài phụ vương Faisal được hạ xuống đặt dưới chân pho tượng Khalid Abdel Aziz. Đó là quang cảnh tang lễ quốc vương Saud al Faisal, xứ Saudi Arabia, người vừa bị chính cháu mình là hoàng tử Faisal Musad Aziz sát hại.
Cậu Aziz theo học môn Khoa Học Chính Trị tại Đại học <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />
* Ông Vua Hảo Tâm
Ngày chôn cất Quốc Vương Faisal, TT Thiệu gửi điện chia buồn cùng Hoàng Gia Saudi, cầu xin Allah sớm đưa ngài về nơi cực lạc (KĐMTC, trang 310-318). Vua Faisal là người đã tỏ ý muốn giúp đỡ VNCH trong lúc hoạn nạn. Khi bị cắt hết viện trợ, ông bằng lòng cho vay mấy trăm triệu đôla để mua xăng nhớt và tiếp liệu. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Chính phủ Miền
Dù biết rằng Hoàng Gia Saudi đang rất bận về ma chay và bối rối trong nội bộ, nhưng vì tình thế khẩn trương nên chỉ vài tuần sau, chính phủ VNCH vẫn cử Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc đi Ryadth gặp tân quốc vương Khalid để tiếp tục cầu viện (NT Bắc hiện cư ngụ tại Paris). Ngày 14 tháng 4, tân Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn trình diện tân nội các lên Tổng Thống. Ông Thiệu dặn tôi vào gặp ông ngay sau nghi lễ. Vừa vào phòng, ông đưa cho tôi xem một công điện đề ngày 14 tháng 4 do ông Bắc gửi từ Luân Đôn về, báo cáo lạc quan về kết quả chuyến đi: “Tất cả, đặc biệt là vua Haled (Khalid) đã cho tôi những bảo đảm vững chắc về việc tiếp tục yểm trợ và viện trợ kinh tế cho VNCH.” Ông Bắc yêu cầu cho phép ông ghé
“Vậy là ông Bắc, ông Hưng và ông (Đại sứ) Phượng có thể sẽ là một trio (bộ ba) để lo vấn đề viện trợ tại Mỹ trong tuần lễ crucial (quyết định) này. Nếu vậy thì Thủ Tướng cho ông Hưng đi, và cho cả ông Bắc qua
Tính ra thì dù tôi có đi ngay, khi tới
* Xin Đừng Bỏ Phiếu “Không”
TT Thiệu muốn hoãn lại việc Quốc Hội sẽ bỏ phiếu vào ngày 19 tháng 4 chống tăng quân viện. Vào giờ phút đó, kế hoạch vay viện trợ là điều duy nhất còn có thể được đặt ra. Ông hy vọng rằng nếu chỉ yêu cầu ‘vay’ tức là đưa ra một sự lựa chọn khác thì có thể Quốc Hội khỏi phải bỏ phiếu về việc ‘cho’ viện trợ. Việc cần làm ngay là phải hoãn quyết định ‘không’.
Bởi vậy, việc ‘vay’ viện trợ của Mỹ là việc liên hệ trực tiếp tới chuyến công tác cuối cùng của VNCH và do chính bản thân tôi thi hành.
Nguyên thủy kế hoạch vay là như thế này: từ muà hè 1974, khi liên hệ giữa Sàigòn và
Trước khi tôi đi công tác, một bức thư cho TT Ford được soạn thảo sẵn để trên bàn TT Thiệu. Ông dặn là tại
“Tôi trân trọng thỉnh cầu Ngài kêu gọi Quốc Hội cho VNCH vay dài hạn 3 tỷ đô la, chia làm ba năm, lãi suất do Quốc Hội định, và xin triển hạn 10 năm trước khi trả vốn và lời. Tài nguyên dầu lửa và canh nông của VNCH sẽ được dùng thế chân cho món nợ này... Đây là một hành động cuối cùng của chúng tôi kêu gọi sự giúp đỡ của Hoa Kỳ với tư cách là một đồng minh.”
Để giúp tôi thi hành công tác, TT Thiệu nhờ ĐS Martin yểm trợ. Martin đánh điện về cho Ngoại Trưởng Kissinger:
“Tôi báo cáo để Ngoại Trưởng biết rằng ông Thiệu đề nghị nếu việc xin thêm $722 triệu quân viện có thể bị Quốc Hội bác bỏ, ta nên tìm cách hoãn ngày bỏ phiếu lại. Mặc dầu ông Thiệu không muốn nói ra nhưng rõ ràng rằng cả ông ta lẫn tất cả mọi người khác đều không biết rồi sự việc sẽ ra sao (nếu QH bỏ phiếu chống)"”
Sau đó ông đã gửi một công điện nữa để đề nghị thẳng việc VNCH xin vay. Và ngày 17 tháng Tư, cũng trong mật điện 0709, ông Ellerman nói thêm chi tiết về kế hoạch này:
“Trong một thông điệp khác cũng qua ngả này (đường giây mật), ông Đại sứ đã nêu ý kiến về việc VNCH xin vay một khoản tiền là $5 tỷ như một giải pháp để tránh sự bế tắc hiện nay tại Quốc Hội (về việc cấp thêm quân viện).
Tại sao VNCH chỉ muốn vay có $3 tỷ mà ông Ellerman lại nói là $5 tỷ" Sau này, khi thăm viếng cựu Đại sứ Martin lúc về hưu, tôi có hỏi, và ông trả lời: “Với Quốc Hội Mỹ, nếu muốn $3 tỷ thì phải xin $5 tỷ,” rồi thêm: “Chính phủ Miền
Đề cập tới tính cách khả thi của kế hoạch vay, Ellerman viết tiếp:
“Tôi tính toán sơ sơ là với lãi suất 3%, 10 năm ân hạn, và 25 năm cho thời gian hoàn trả thì thấy rằng có thể khả thi được. Chúng tôi đã yêu cầu ông Cooper nghiên cứu về vấn đề này. Xin ông vui lòng hỏi xem tiến bộ ra sao, và điều quan trọng hơn cả là đừng cho Bộ Ngoại Giao cũng như cơ quan USAID (Viện Trợ Mỹ) biết.
Báo cáo cho Toà Bạch Ốc biết về chuyến đi của ông Hưng
Ngay từ khi nhận được chỉ thị cuả TT Thiệu để đi công tác, tôi đã tỏ vẻ dè dặt với ĐS Martin về Bộ Ngoại Giao Mỹ, và nói tôi còn phải tham khảo ý kiến của Tiến sĩ Warren Nutter, Cựu Phụ Tá Quốc Phòng (cũng là ông thày cũ của tôi ở Đại học Virginia) xem sao đã rồi tuỳ tiện, mới bàn việc này với Bộ Ngoại Giao. Vì vậy, Ellerman đã viết cho ông
“Ông Hưng, Tổng Trưởng Kế Hoạch đã rời Sàigòn đi Washington lo việc vận động về viện trợ nói chung và để đề nghị ý kiến xin vay tiền nói riêng, một ý kiền hầu như chỉ do mình ông ta về phiá VNCH. Có thể là ông ta sẽ bắt đầu đưa đề nghị này với Bộ Ngoại Giao và cơ quan USAID trước; ông ta hành động như vậy là vì tin tưởng rằng nhân dân Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng chấp nhận. Chúng tôi coi đây là một giải pháp cuối cùng mới phải dùng đến, và việc xúc tiến còn tuỳ theo những tính toán ""(của các ông) về phản ứng của Quốc Hội.
“Ông có thể tìm gặp ông Hưng và cho ông ấy biết rằng chính ông và ông Cooper cũng đang làm việc về vấn đề này (xin vay), nhưng ông ta phải tôn trọng những suy luận của chúng ta về việc đánh giá phản ứng của Quốc Hội.” …
Trân trọng,
MARTIN
Toà Bạch Ốc phản ứng như thế nào về ‘vay’ viện trợ"
Sau đây là câu trả lời. Cũng theo văn bản 7196 từ Toà Bạch Ốc (ngày 19 tháng 4, 1975):
4. “KHOẢN VAY $5 TỶ
CÁC ÔNG COOPER VÀ STEARMAN ĐÃ BÀN ĐỊNH VẤN ĐỀ NÀY HÔM QUA, VÀ TÔI ĐÃ NÓI CHUYỆN VỚI CẢ HAI ÔNG NGÀY HÔM NAY. Ý KIẾN CHUNG LÀ CHÚNG TA KHÔNG CÓ CÁCH NÀO LÀM ĐƯỢC VIỆC NÀY TRONG HOẢN CẢNH HIỆN TẠI. TÔI CHƯA ĐỌC NHỮNG CÔNG ĐIỆN MỚI TỚI NÊN CHƯA CÓ NHỮNG CHI TIẾT, NHƯNG NẾU (việc vay mượn) ĐÒI HỎi QUỐC HỘi PHẢI CHUẨN CHI THÌ THẬT LÀ KHÓ, ÍT NHẤT LÀ CHO TỚI KHI TÌNH HÌNH (ở Miền Nam) ĐƯỢC ỔN ĐỊNH.
Bình luận:
Lúc ấy Hoa Kỳ chỉ còn lo tháo gỡ, không muốn phiền lụy gì thêm nữa. Tôi bàn công việc với Tiến sĩ Warren Nutter, cựu Phụ Tá Quốc Phòng, ông cố vấn cho tôi rằng khỏi phải tiếp xúc với phiá Hành Pháp nữa, vì họ đã phủi tay hết rồi. Bởi vậy tôi lảng tránh, và tiếp tục hoạt động một mình.
Cảnh cáo hay đe dọa"
Ông Butler viết tiếp:
“TÔI CHƯA GẶP ĐƯỢC ÔNG HƯNG, NHƯNG SẼ TIẾP TỤC TÌM ÔNG ẤY; TÔI ĐỒNG Ý RẰNG NẾU ÔNG TA CỨ TỰ MÌNH TRANH THỦ CHO KHOẢN VAY NÀY THÌ SẼ TAI HỌA CHO ÔNG TA (it would be a disaster for him).
Tại sao lại tai hoạ" Chắc là vì tôi đã đi trật đường rầy chăng" Thay vì gặp các quan chức bên Hành Pháp, tôi tìm gặp ngay vị Tuyên Úy Thượng Viện Hoa Kỳ là Mục Sư Edward Elson, một người rất có uy tín tại Quốc Hội (sáng nào ông cũng cầu nguyện với thượng Viện trước khi khai mạc), và là chỗ thân tình từ lâu. Tôi nhờ ông cố gắng thuyết phục các nghị sĩ cứu xét một khoản vay thay vì bỏ phiếu ‘không’. Ông Elson hứa sẽ cố giúp nhưng cho hay có thể là đã quá muộn.
Trong khi chờ đợi câu trả lời để đánh điện về cho TT Thiệu, sáng ngày 18 tháng Tư, anh bạn Lê Văn sắp xếp để tôi lên đài VOA phỏng vấn về đề mục “còn nước còn tát.” Tôi vừa ngồi chờ trước chiếc micro trong phòng thu âm thì Lê Văn bước vào. Thay vì phỏng vấn, anh lại đưa ngay cho tôi xem bản tin các hãng thông tấn đánh đi: “Ủy Ban Quốc Phòng Thượng Viện vừa bỏ phiếu chống việc tăng quân viện cho VNCH. Ủy Ban Bang Giao quốc tế cũng vừa chấp thuận việc cho quyền TT Ford dùng quân đội Hoa Kỳ để di tản người Mỹ ra khỏi Việt
Lúc đó là 10 giờ 30 sáng ngày 18 tháng Tư, 1975, một thời điểm đối với tôi thật là khó quên. Làm sao diễn tả được những xúc động của mình lúc ấy" Ê chề, chua xót, thất vọng hoàn toàn! Khi tạm biệt TT Thiệu tại Dinh Độc Lập để đi Mỹ ngày 15 tháng Tư, tôi thấy ông có vẻ đăm chiêu, lo lắng nhưng không có dấu hiệu gì là tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng chắc cũng còn thời gian để hoạt động. Lúc tới phi trường
Thế nhưng bây giờ thì một giọt nước cũng chẳng còn. Tôi lủi thủi xách cặp ra về. Đài VOA nằm trong cao ốc Bộ Y Tế, Giáo Dục và An Sinh (HEW), chỉ cách Quốc Hội có ba phố. Lái xe vài phút là đã đi qua toà nhà có cái tháp vòng cung khổng lồ ấy rồi. Bao nhiêu suy nghĩ trong tâm trí. Và tôi thầm nghĩ: cả một cường quốc, với năm vị Tổng Thống có dính líu, bao nhiêu hứa hẹn, bao nhiêu cam kết, để rồi rút cuộc cũng chỉ thế này thôi! Chẳng ‘cho’ thêm, cũng chẳng muốn ‘cho vay,’ xong là xong, chỉ có vậy. Nghĩ loay hoay làm sao mà trên đường về, tôi lại lái xe đi lạc. Đường xá ở thành phố này thì tôi quá quen thuộc, quen hơn ở bất cứ tỉnh nào khác, kể cả Sàigòn, Hà Nội, Thanh Hoá (quê tôi), vì Washington là nơi tôi đã sinh sống lâu nhất.
Khi chẳng còn giọt nước nào để tát, buổi chiều tôi đến ngay nhà Mục sư Edward Elson Tuyên Úy Thượng Viện (ngụ tại Đại lộ Cathedral) yêu cầu ông giúp tôi kịp thời thay đổi sứ mạng: tập trung vào việc cứu giúp người Việt tỵ nạn.
Đó là ngày thứ Sáu, 18 tháng Tư. Ngày mai cuối tuần, Toà Bạch Ốc còn phải sửa soạn những thủ tục cuối cùng cho chuyền đi New Orleans của TT Ford vào thứ Tư, 23 tháng Tư.
Hôm ấy, TT Ford thủng thẳng bước vào ‘giảng đường’ của Đại học Tulane, rồi dõng dạc tuyên bố trước hàng ngàn sinh viên, với đầy đủ truyền thông Hoa Kỳ và quốc tế:
“Đối với Hoa Kỳ, chiến tranh Việt
“Nước Mỹ có thể lấy lại được niềm hãnh diện đã có trước (chiến tranh) Việt
Giảng đường như muốn vỡ ra vì tiếng vỗ tay, huýt sáo, la hò, vui mừng. Thế là đã xong. Từ nay, ứng cử viên Gerald Ford có thể tập trung lo tranh cử chức Tổng Thống vào năm 1976.
Ngày 5 tháng Tư, 1975, sau khi thẩm định tình hình tại Việt Nam theo lệnh TT Ford, chính Tướng Fred Weyand đã báo cáo cho ông Ford rằng VNCH chưa bỏ cuộc. Tình hình quân sự thì hết sức nguy ngập và họ đang gần kề sự thất bại hoàn toàn, “Tuy nhiên Miền
* Thay lời kết
Nếu những toan tính cuối cùng của VNCH và sự yểm trợ của ĐS Martin được
Rất có thể là kết cục đã khác.
Theo như Đại sứ Martin, nếu có tiếp liệu và nếu
Ông Đại sứ cuối cùng của Hoa Kỳ tại Miền Nam cứ nhất quyết rằng cho tới ngày 27 tháng Tư, 1975, Bắc Việt vẫn còn đồng ý điều đình một giải pháp chính trị, và chỉ đổi ý vào đêm hôm ấy. Sau này ông cũng đã trình bày lại với Quốc Hội Mỹ y như thế. Sự việc này cũng được chính Ngoại Trưởng Henry Kissinger khẳng định trong cuộc họp báo ngày 5 tháng Năm, 1975 (KĐMTC, trang 391).
Tại sao Bắc Việt lại đổi ý đêm 27 tháng 4 để chỉ dùng giải pháp quân sự là tiến vao Sàigòn bằng xe tăng" Liệu lời tuyên bố của TT Ford vào ngày 23 tháng 4, có ảnh hưởng gì tới sự kiện này không"
Rồi hậu qủa của việc bỏ rơi Miền
Như ông Robert Thompson (chuyên gia về du kích, cố vấn cho chính phủ Hoa Kỳ) đã nhận xét trong báo cáo cho TT Ford chỉ hai tháng trước khi sụp đổ:
“Miền Nam đang sẵn sàng tiếp tục chiến đấu, và nếu có được sự ủng hộ tối thiểu để khích lệ nhân dân họ và để ngăn cản Hà Nội, giúp họ kiên trì giai giẳng đủ lâu, thì sẽ đi tới chỗ chấm dứt được sự can dự của Hoa Kỳ. Thế nhưng, nếu không được yểm trợ, Miền Nam sẽ sụp đổ trước sự hổ thẹn muôn đời của Hoa Kỳ,” (KĐMTC, trang 236-237).
Mới đây, chính TT Bush đã phải nhắc đến sự việc là cả lãnh tụ nhóm Al Queda cũng đã cho rằng Mỹ sẽ tháo chạy ở
“Sự việc có thể biến chuyển mau lẹ hơn là ta tưởng. Những hậu quả về việc sụp đổ của sức mạnh Hoa Kỳ tại Việt
Tiếng Pháp có câu “plus ça change, plus ça revient au même” (the more things change, the more they stay the same). Càng nhìn
***
“Vang vang trời vào xuân,” thế là Tháng Tư đã tới rồi. Cảnh vật vừa ra khỏi một mùa đông giá lạnh và đang bắt đầu lấy lại sức sống. Trên đường từ khu Đại Họcvề nhà, khi băng qua chiếc cầu trên giòng sông Potomac, tôi đã thấy hoa anh đào nở rội, dệt lên những tấm thảm trắng hồng, điểm thêm cho vẻ đẹp lộng lẫy của thủ đô. Phong cảnh nơi đây thật nhộn nhịp mà sao lòng mình vẫn nao nao, không quên được bao nhiêu cảm xúc của những giờ phút vào Tháng Tư năm ấy.
Rồi tôi lẩm bẩm:
“Chiều nay gửi tới quê xưa,
Biết là bao thương nhớ cho vừa!”