Bản tiếng Việt: Thúy Chi - IRS/SPEC
1. Các khoản tiền trợ cấp sau khi ly hôn có phải là một nguồn thu nhập phải đóng thuế không"
Tiền trợ cấp trong năm dành cho người vợ/chồng đã ly dị hoặc đang trong tình trạng ly thân, và những khoản trợ cấp tương tự từ chồng/vợ của quý vị, hoặc từ người chồng/vợ trước cung cấp cho quý vị là một loại thu nhập phải đóng thuế. Số tiền này được khai trên dòng số 11 của mẫu đơn thuế 1040. Khi nhận được một hay nhiều nguồn thu nhập kể trên, quý vị không thể dùng mẫu đơn 1040A hay 1040EZ để khai thuế. Xin tham khảo thêm tài liệu trên ấn bản 504 - Ly Dị hoặc Ly Thân (Publication 504 - Divorced or Separated Individuals).
Nếu quý vị không biết chắc các khoản tiền quý vị nhận được có phải là tiền trợ cấp ly hôn hay không, xin đọc kỹ phần dưới đây:
Các quy định này áp dụng cho các khoản tiền trả cho người phối ngẫu được quyền ly dị hay ly thân theo văn kiện toà án được thi hành sau năm 1984. Các quy định này cũng đồng thời áp dụng cho các văn kiện đã được sửa đổi sau năm 1984 để:
§ Xác định rõ rằng các quy định này sẽ có hiệu lực, hay
§ Thay đổi số tiền hoặc thời điểm trả tiền, hoặc thêm/bớt các điều kiện hay bất cứ tình huống bất ngờ nào.
Đối với những quy định về việc trợ cấp cho người phối ngẫu đã ly dị theo các điều khoản có trước năm 1984, xin tham khảo ấn bản 504 - Những Người Ly Dị hay Ly Thân (Publication 504 - Divorce or Separated Individuals).
Nếu hai vợ chồng không khai chung hồ sơ thuế, và nếu các điều kiện dưới đây xảy ra, tiền trợ cấp trả cho vợ/chồng hoặc vợ/chồng cũ đã ly dị hay ly thân theo pháp định được xem là tiền trợ cấp ly thân hay trợ cấp ly dị.
1) Khoản trợ cấp được trả bằng tiền mặt (cash), chi phiếu ngân hàng (check), phiếu trả tiền (money order) v.v.
2) Trên văn kiện ly dị hoặc ly thân không ghi rõ rằng các khoản trợ cấp "không phải là trợ cấp ly hôn."
3) Hai vợ chồng không sống chung nhà kể từ khi người vợ/chồng nhận tiền trợ cấp của người kia.
4) Nếu người vợ/chồng nhận trợ cấp qua đời, người trả trợ cấp không phải tiếp tục trả tiền cho người quá cố.
5) Tiền trợ cấp ly hôn không được xem như tiền trợ cấp nuôi con.
Xin tham khảo thêm phần giải thích cho các yêu cầu vừa kể trên ấn bản 504.
2. Tiền trợ cấp nuôi con có được xem như là nguồn lợi tức phải đóng thuế không"
Không. Có một vài loại lợi tức người khai thuế nhận được nhưng không phải đóng thuế, và tiền trợ cấp nuôi con là một trong các loại này. Khi quý vị cộng chung tất cả các nguồn lợi tức nhận được trong năm để quyết định quý vị có nên nộp hồ sơ khai thuế hay không, xin đừng bao gồm các nguồn lợi tức không đóng thuế.
Xin đọc thêm ấn bản 525 - Lợi Tức Không Đóng Thuế Và Lợi Tức Phải Đóng Thuế (Publication 525 - Taxable and Nontaxable Income) để biết rõ loại lợi tức nào không và loại nào phải đóng thuế.
3. Tôi được bồi thường cho các thương tổn từ các mối căng thẳng về tinh thần do bị phân biệt đối xử ở sở làm. Số tiền này có phải là loại lợi tức phải đóng thuế không"
Thương tổn từ những trạng thái căng thẳng tinh thần khác với thương tổn về thể chất hoặc bệnh tật; do đó, tiền bồi thường cho những thiệt hại do trạng thái căng thẳng thần kinh gây nên được bao gồm trong lợi tức phải đóng thuế ngoại trừ các chi phí phải trả cho việc chăm sóc y tế trong gian bệnh nhân bị căng thẳng tinh thần.
4. Chủ tôi muốn sa thải tôi vì lý do tuổi tác. Tôi đã ký giấy cam kết không thưa kiện chủ nhân và đã nhận được một khoản tiền cho việc sa thải này. Xin cho biết tôi có phải đóng thuế trên số tiền này không"
Món tiền quý vị nhận do bị sa thải là loại thu nhập phải đóng thuế khi quý vị khai thuế vào cuối năm nhận được tiền. Số tiền này phải được khai chung với các khoản lợi tức lương bổng trong thời gian quý vị làm việc. Điều này vẫn đúng ngay cả khi quý vị nhận được tiền là kết quả giải quyết theo tinh thần của bộ luật Lao Động về việc Phân Biệt Đối Xử với Lý Do Tuổi Tác (The Age Discrimination in Employment Act) qua tố tụng hay qua thỏa thuận.
Xin tham khảo thêm ấn bản 525 - Lợi Tức Phải Đóng Thuế Và Lợi Tức Không Phải Đóng Thuế (Publication 525 - Taxable and Nontaxable Income) để hiểu rõ hơn về vấn đề này.
5. Các khoản tiền tôi nhận được từ các vụ kiện có phải đóng thuế hay không"
Đối với các khoản bồi thường thiệt hại và tiền thắng kiện, để quyết định các khoản tiền quý vị đồng ý nhận hay do quyết định phân xử của tòa án có phải bao gồm trong nguồn lợi tức hằng năm hay không, quý vị phải cân nhắc từng mục hay từng loại thiệt hại được bồi thường. Các loại tiền bồi thường dưới đây được xem như nguồn lợi tức thông thường:
§ Tiền lời trên bất cứ khoản tiền thưởng chậm trả nào.
§ Tiền bồi thường cho các khoản thiệt hại cho lương bổng, lợi lộc cho mọi trường hợp ngoại trừ các khoản bồi thường do bị tai nạn lao động trong thời gian nghỉ bệnh và tiền lương bị mất do không tiếp tục làm việc được.
§ Các khoản thiệt hại do bị phạt vạ.
§ Các món tiền nhận được do thoả thuận về quyền nghỉ hưu (trường hợp quý vị không đóng góp gì vào quỹ hưu này).
§ Các thiệt hại do việc: (a) vi phạm tác quyền và quyền sáng chế; (b) vi phạm hợp đồng; (c) quấy nhiễu công việc kinh doanh.
§ Bất cứ khoản bồi thường nào chiếu theo bộ luật Lao Động về việc Phân Biệt Đối Xử với Lý Do Tuổi Tác.
§ Uy tín bị thiệt hại.
§ Phá hoại mối quan hệ tình cảm của người khác.
Xin đừng bao gồm các món tiền bồi thường cho các thương tổn về thể xác hay bị bịnh tật vào nguồn lợi tức cá nhân mặc dù quý vị nhận được các khoản bồi thường này chung một lần hay nhiều lần.
Tiền bồi thường cho ác thương tổn do tinh thần bị căng thẳng có nguồn gốc từ những thương tổn về thể xác hay bệnh tật không phải là loại thu nhập phải đóng thuế.
Tiền bồi thường cho các thiệt hại vì bị phạt vạ là loại thu nhập phải đóng thuế bất kể việc phạt vạ này có liên quan đến bệnh lý hay thể chất bị tổn thương hay không.
Để hiểu rõ hơn các vấn đề nêu trên, xin tham khảo thêm ấn bản 525 về Các Nguồn Lợi Tức Có Đóng Thuế và Không Đóng Thuế (Publication 525 - Taxable and Nontaxable Income).