Việc thanh toán xong hai con trai của Saddam Hussein có thể là cơ hội bằng vàng, hay bằng máu, để Hoa Kỳ xác định một chiến lược khả tín tại Iraq...
Nếu không phải George W. Bush mà là Al Gore hay bất cứ nhân vật nào trong các “chuẩn ứng viên” của đảng Dân chủ hay Hillary Rodham Clinton làm tổng thống, Hoa Kỳ sẽ không gặp những vấn đề hiện nay tại Iraq hay tại nhiều nơi khác trên thế giới.
Trước tiên, vụ khủng bố 9-11 vẫn xảy ra năm 2001, nó được al-Qaeda chuẩn bị từ thời Bill Clinton và không tùy thuộc vào việc ai làm tổng thống Mỹ. Nhưng, nếu là một nhân vật Dân chủ làm tổng thống thì, căn cứ trên kinh nghiệm Dân chủ từ thời Kennedy đến nay, thì đây là một vài giả thuyết đáng tin (khả tín) nhất: Mỹ chưa chắc đã vào A Phú Hãn mà chỉ phóng vài hỏa tiễn vào một số căn cứ của al-Qaeda và Taliban đi cùng một loạt diễn văn hung hãn, là điều ông Clinton đã làm năm 1998. Cùng với chiến dịch A Phú Hãn sạch sẽ đó là một nỗ lực chung nhằm bảo đảm quyền tự do dân sự của xã hội Mỹ trong kế hoạch chống khủng bố trên đất Mỹ: diệt khủng bố nhưng không thu hẹp dân quyền; dân quyền là ưu tiên, khủng bố là thứ yếu. Đối ngoại, Mỹ sẽ huy động chiến dịch quốc tế, từ các đồng minh đến Liên hiệp quốc, để ra tuyên ngôn nghị quyết chống khủng bố và đòi hỏi Saddam Hussein phải tuân thủ những quyết định trước đó của Liên hiệp quốc. Sau đó, kể từ năm 2002, lãnh đạo Dân chủ chuẩn bị tranh cử trên một chương trình kinh tế xã hội hấp dẫn và đổ lỗi nạn bội chi ngân sách cho nạn suy trầm kinh tế.
Phán quyết của Tối cao Pháp viện Mỹ năm 2000 đã đưa ông Bush lên cầm quyền và sự thể xảy ra khác hẳn với những giả thuyết trên.
Chính quyền Bush đã lấy quyết định khác. Diệt trừ khủng bố là ưu tiên trong mọi ưu tiên, và muốn đảm bảo điều đó, việc triệt hạ tận gốc rễ mọi nguy cơ khủng bố trở thành chiến lược chỉ đạo. Từ đó mới có chiến dịch A Phú Hãn để lật đổ chế độ Taliban và phá vỡ hậu cần của al-Qaeda tại đây. Kế tiếp là tiêu diệt mọi nguy cơ hợp tác giữa các chế độ Hồi giáo chống Mỹ với al-Qaeda: Iraq, Iran, Syria và cả Saudi Arabia phải được chiếu cố để không thể xảy ra rủi ro hợp tác với al-Qaeda. Rộng lớn hơn nữa, phải biểu dương ý chí diệt trừ khủng bố trong thế giới Hồi giáo, từ Trung Đông đển Trung Á, từ Phi châu đến Á châu... Trong cả chiến lược “toàn phương vị” chống khủng bố, Hoa Kỳ vận động sự hợp tác của đồng minh và thế giới, nhưng không lệ thuộc vào sự hợp tác này. Có thì càng hay, không thì thôi. Chiến dịch Iraq nằm trong kế hoạch tổng thể đó. Và đấy là vấn đề.
Hoa Kỳ không tấn công Iraq để lấy dầu hỏa hoặc để bành trướng quyền lợi kinh tế mà vì ba lý do. Thứ nhất, chế độ độc tài này tàn sát dân Iraq và đe dọa các lân bang; thứ hai, chế độ này chế tạo võ khí tàn sát (WMD) và có thể dùng võ khí này để chống Mỹ. Hai lý do đó nghe thuận tai -“lý do đúng”- nhưng không là “lý do thật”. Lý do thật là chế độ tàn bạo và chống Mỹ nhất sẽ phải bị thanh toán để làm gương cho các lực lượng hay chính quyền Hồi giáo chống Mỹ hầu tiêu diệt mọi mầm mống khủng bố trong vùng. Cho đến nay, Mỹ có thành công tương đối trong “lý do thật” khi chi phối cách hành xử của các chính quyền Syria, Iran và Saudi Arabia mà bị vấp vì hai “lý do đúng”. Thứ nhất, nếu chế độ Saddam Hussein tồi bại độc ác như vậy vì sao lực lượng Mỹ vẫn bị chống tại Iraq và Hoa Kỳ vẫn bị các đồng minh và cộng đồng ngoại giao quốc tế đả kích" Thứ hai, nếu chế độ Saddam Hussein có võ khí tàn sát, vì sao Mỹ chưa tìm ra và phải chăng chính quyền Bush đã ngụy tạo vụ WMD này để lấy lý do gây chiến" Dư luận Mỹ quên hẳn những lý luận của chính quyền Clinton về vụ WMD này, hoàn toàn không khác lý luận của chính quyền Bush. Nhưng dư luận có quyền chậm hiểu, chóng quên và dễ đổi ý.
Truyền thông quốc tế không hề thắc mắc về một sự kiện là sau bao lần hăm dọa, al Qaeda không tiến hành nổi một vụ tấn công ngoạn mục vào nội địa Mỹ như vụ 9-11 mà chỉ có vài ba đợt lẻ tẻ, rời rạc, có giá trị chiến thuật hơn chiến lược (tại Bali, tại Casablanca hay tại Saudi Arabia). Nguy hiểm hơn vậy cho sự khả tín của tình báo Mỹ lẫn uy tín chính trị của ông Bush, người ta thấy lực lượng Mỹ không ổn định nổi tình hình Iraq mà vấn đề võ khí tàn sát đang trở thành đề mục tranh luận. Bài diễn văn có 16 chữ của ông Bush hay vụ chuyên gia võ khí Anh David Kelly tự sát gây sôi nổi trong chính trường Mỹ và Anh cũng gay gắt như những vụ bắn sẻ tại Iraq. Ông Bush bị kết án là dàn cảnh lý do tấn công Iraq. Dư luận cần có lý luận đơn giản, dễ hiểu và khi các lý do được viện dẫn đòi hỏi quá nhiều suy tư rắc rối, người ta sẽ tin vào điều dễ hiểu nhất: Mỹ gian dối!
Chính quyền Bush bị kết án vì các “lý do đúng” đang trở thành “lý do giả”, trong khi “lý do thật” là diệt trừ khủng bố (al-Qaeda và các chế độ lân bang của Iraq) lại bị lãng quên. Nếu al-Qaeda mở cuộc tàn sát nữa trên nước Mỹ, người ta sẽ quên hai lý do đúng và ưu tiên của chính quyền Bush sẽ được công nhận là chính đáng. Không chính quyền nào lại đi tìm chiến thắng về lý luận bằng một tổn thất kinh hoàng như vậy.
Rốt cuộc, chính quyền Bush đang gặp vấn đề gì" - Vấn đề trình bày hơn là trình diễn.
Chiến dịch Iraq chỉ là một bộ phận của chiến lược chống khủng bố. Không nhìn thấy sự mạch lạc này, ông Bush sẽ bị sa lầy trong trận du kích chính trị tại Washington về chuyện võ khí tàn sát WMD và trước diễn đàn quốc tế về nguy cơ chiến tranh du kích tại Iraq. Ông ta có thể bị thất cử năm tới vì hai ấn tượng bất lợi đó. Nguy hiểm hơn, ông ta chắc chắn sẽ bị thất cử nếu không chứng minh được khả năng lãnh đạo khi chỉ huy ba bộ phận quan trọng nhất về đối ngoại trong bối cảnh chống khủng bố: tình báo, quân sự và ngoại giao. Sau chiến thắng quân sự thần tốc hồi tháng Tư, Hoa Kỳ gặp nhiều thất bại trên hai địa hạt tình báo và ngoại giao. Hoa Kỳ chưa thuyết phục được các đồng minh hay Liên hiệp quốc cùng chung sức ổn định tình hình Iraq hầu các đơn vị tác chiến Mỹ khỏi bị trải mỏng trong nhiệm vụ bảo an và mỗi tuần lại có chừng một chục binh lính Mỹ bị hạ sát, nội bộ lại có tranh luận về khả năng tình báo hay về trách nhiệm liên hệ đến chữ nghĩa của một bài diễn văn. Dù Giám đốc CIA hay Cố vấn An ninh Quốc gia thứ nhì sau Condoleezza Rice có nhận lỗi thì lỗi đó vẫn thuộc ông Bush. Tuần qua là một tuần mất mùa mất phiếu của ông Bush, việc hai người con Odai và Qusai của Saddam Hussein bị hạ sát có thể gây hứng khởi nhất thời cho dư luận, nhưng chỉ là thắng lợi giai đoạn giúp chính quyền của ông nhân cái trớn đó mà trình bày sự việc cho rõ ràng hơn.
Hoa Kỳ vào Iraq làm gì và đã đạt những kết quả cụ thể nào xét trên tiêu chuẩn chống khủng bố là tiêu chuẩn ưu tiên của chính quyền Bush" Nói cho cụ thể, Hoa Kỳ có chiến lược gì thiết thực và khả tín tại Iraq - dễ hiểu và kiểm chứng được- trong toàn bộ cuộc chiến chống khủng bố" Chưa ai thấy rõ chiến lược đó, chỉ thấy lính Mỹ bị giết, lãnh đạo Mỹ tại Iraq đổi thay như chong chóng và nội bộ cãi vã về trách nhiệm viết diễn văn!
Nếu không thuyết phục được dư luận, ông Bush sẽ để cho giới lãnh đạo Dân chủ lên cầm quyền vào năm 2005. Với kết quả ra sao thì chưa ai dám nghĩ đến...
Nếu không phải George W. Bush mà là Al Gore hay bất cứ nhân vật nào trong các “chuẩn ứng viên” của đảng Dân chủ hay Hillary Rodham Clinton làm tổng thống, Hoa Kỳ sẽ không gặp những vấn đề hiện nay tại Iraq hay tại nhiều nơi khác trên thế giới.
Trước tiên, vụ khủng bố 9-11 vẫn xảy ra năm 2001, nó được al-Qaeda chuẩn bị từ thời Bill Clinton và không tùy thuộc vào việc ai làm tổng thống Mỹ. Nhưng, nếu là một nhân vật Dân chủ làm tổng thống thì, căn cứ trên kinh nghiệm Dân chủ từ thời Kennedy đến nay, thì đây là một vài giả thuyết đáng tin (khả tín) nhất: Mỹ chưa chắc đã vào A Phú Hãn mà chỉ phóng vài hỏa tiễn vào một số căn cứ của al-Qaeda và Taliban đi cùng một loạt diễn văn hung hãn, là điều ông Clinton đã làm năm 1998. Cùng với chiến dịch A Phú Hãn sạch sẽ đó là một nỗ lực chung nhằm bảo đảm quyền tự do dân sự của xã hội Mỹ trong kế hoạch chống khủng bố trên đất Mỹ: diệt khủng bố nhưng không thu hẹp dân quyền; dân quyền là ưu tiên, khủng bố là thứ yếu. Đối ngoại, Mỹ sẽ huy động chiến dịch quốc tế, từ các đồng minh đến Liên hiệp quốc, để ra tuyên ngôn nghị quyết chống khủng bố và đòi hỏi Saddam Hussein phải tuân thủ những quyết định trước đó của Liên hiệp quốc. Sau đó, kể từ năm 2002, lãnh đạo Dân chủ chuẩn bị tranh cử trên một chương trình kinh tế xã hội hấp dẫn và đổ lỗi nạn bội chi ngân sách cho nạn suy trầm kinh tế.
Phán quyết của Tối cao Pháp viện Mỹ năm 2000 đã đưa ông Bush lên cầm quyền và sự thể xảy ra khác hẳn với những giả thuyết trên.
Chính quyền Bush đã lấy quyết định khác. Diệt trừ khủng bố là ưu tiên trong mọi ưu tiên, và muốn đảm bảo điều đó, việc triệt hạ tận gốc rễ mọi nguy cơ khủng bố trở thành chiến lược chỉ đạo. Từ đó mới có chiến dịch A Phú Hãn để lật đổ chế độ Taliban và phá vỡ hậu cần của al-Qaeda tại đây. Kế tiếp là tiêu diệt mọi nguy cơ hợp tác giữa các chế độ Hồi giáo chống Mỹ với al-Qaeda: Iraq, Iran, Syria và cả Saudi Arabia phải được chiếu cố để không thể xảy ra rủi ro hợp tác với al-Qaeda. Rộng lớn hơn nữa, phải biểu dương ý chí diệt trừ khủng bố trong thế giới Hồi giáo, từ Trung Đông đển Trung Á, từ Phi châu đến Á châu... Trong cả chiến lược “toàn phương vị” chống khủng bố, Hoa Kỳ vận động sự hợp tác của đồng minh và thế giới, nhưng không lệ thuộc vào sự hợp tác này. Có thì càng hay, không thì thôi. Chiến dịch Iraq nằm trong kế hoạch tổng thể đó. Và đấy là vấn đề.
Hoa Kỳ không tấn công Iraq để lấy dầu hỏa hoặc để bành trướng quyền lợi kinh tế mà vì ba lý do. Thứ nhất, chế độ độc tài này tàn sát dân Iraq và đe dọa các lân bang; thứ hai, chế độ này chế tạo võ khí tàn sát (WMD) và có thể dùng võ khí này để chống Mỹ. Hai lý do đó nghe thuận tai -“lý do đúng”- nhưng không là “lý do thật”. Lý do thật là chế độ tàn bạo và chống Mỹ nhất sẽ phải bị thanh toán để làm gương cho các lực lượng hay chính quyền Hồi giáo chống Mỹ hầu tiêu diệt mọi mầm mống khủng bố trong vùng. Cho đến nay, Mỹ có thành công tương đối trong “lý do thật” khi chi phối cách hành xử của các chính quyền Syria, Iran và Saudi Arabia mà bị vấp vì hai “lý do đúng”. Thứ nhất, nếu chế độ Saddam Hussein tồi bại độc ác như vậy vì sao lực lượng Mỹ vẫn bị chống tại Iraq và Hoa Kỳ vẫn bị các đồng minh và cộng đồng ngoại giao quốc tế đả kích" Thứ hai, nếu chế độ Saddam Hussein có võ khí tàn sát, vì sao Mỹ chưa tìm ra và phải chăng chính quyền Bush đã ngụy tạo vụ WMD này để lấy lý do gây chiến" Dư luận Mỹ quên hẳn những lý luận của chính quyền Clinton về vụ WMD này, hoàn toàn không khác lý luận của chính quyền Bush. Nhưng dư luận có quyền chậm hiểu, chóng quên và dễ đổi ý.
Truyền thông quốc tế không hề thắc mắc về một sự kiện là sau bao lần hăm dọa, al Qaeda không tiến hành nổi một vụ tấn công ngoạn mục vào nội địa Mỹ như vụ 9-11 mà chỉ có vài ba đợt lẻ tẻ, rời rạc, có giá trị chiến thuật hơn chiến lược (tại Bali, tại Casablanca hay tại Saudi Arabia). Nguy hiểm hơn vậy cho sự khả tín của tình báo Mỹ lẫn uy tín chính trị của ông Bush, người ta thấy lực lượng Mỹ không ổn định nổi tình hình Iraq mà vấn đề võ khí tàn sát đang trở thành đề mục tranh luận. Bài diễn văn có 16 chữ của ông Bush hay vụ chuyên gia võ khí Anh David Kelly tự sát gây sôi nổi trong chính trường Mỹ và Anh cũng gay gắt như những vụ bắn sẻ tại Iraq. Ông Bush bị kết án là dàn cảnh lý do tấn công Iraq. Dư luận cần có lý luận đơn giản, dễ hiểu và khi các lý do được viện dẫn đòi hỏi quá nhiều suy tư rắc rối, người ta sẽ tin vào điều dễ hiểu nhất: Mỹ gian dối!
Chính quyền Bush bị kết án vì các “lý do đúng” đang trở thành “lý do giả”, trong khi “lý do thật” là diệt trừ khủng bố (al-Qaeda và các chế độ lân bang của Iraq) lại bị lãng quên. Nếu al-Qaeda mở cuộc tàn sát nữa trên nước Mỹ, người ta sẽ quên hai lý do đúng và ưu tiên của chính quyền Bush sẽ được công nhận là chính đáng. Không chính quyền nào lại đi tìm chiến thắng về lý luận bằng một tổn thất kinh hoàng như vậy.
Rốt cuộc, chính quyền Bush đang gặp vấn đề gì" - Vấn đề trình bày hơn là trình diễn.
Chiến dịch Iraq chỉ là một bộ phận của chiến lược chống khủng bố. Không nhìn thấy sự mạch lạc này, ông Bush sẽ bị sa lầy trong trận du kích chính trị tại Washington về chuyện võ khí tàn sát WMD và trước diễn đàn quốc tế về nguy cơ chiến tranh du kích tại Iraq. Ông ta có thể bị thất cử năm tới vì hai ấn tượng bất lợi đó. Nguy hiểm hơn, ông ta chắc chắn sẽ bị thất cử nếu không chứng minh được khả năng lãnh đạo khi chỉ huy ba bộ phận quan trọng nhất về đối ngoại trong bối cảnh chống khủng bố: tình báo, quân sự và ngoại giao. Sau chiến thắng quân sự thần tốc hồi tháng Tư, Hoa Kỳ gặp nhiều thất bại trên hai địa hạt tình báo và ngoại giao. Hoa Kỳ chưa thuyết phục được các đồng minh hay Liên hiệp quốc cùng chung sức ổn định tình hình Iraq hầu các đơn vị tác chiến Mỹ khỏi bị trải mỏng trong nhiệm vụ bảo an và mỗi tuần lại có chừng một chục binh lính Mỹ bị hạ sát, nội bộ lại có tranh luận về khả năng tình báo hay về trách nhiệm liên hệ đến chữ nghĩa của một bài diễn văn. Dù Giám đốc CIA hay Cố vấn An ninh Quốc gia thứ nhì sau Condoleezza Rice có nhận lỗi thì lỗi đó vẫn thuộc ông Bush. Tuần qua là một tuần mất mùa mất phiếu của ông Bush, việc hai người con Odai và Qusai của Saddam Hussein bị hạ sát có thể gây hứng khởi nhất thời cho dư luận, nhưng chỉ là thắng lợi giai đoạn giúp chính quyền của ông nhân cái trớn đó mà trình bày sự việc cho rõ ràng hơn.
Hoa Kỳ vào Iraq làm gì và đã đạt những kết quả cụ thể nào xét trên tiêu chuẩn chống khủng bố là tiêu chuẩn ưu tiên của chính quyền Bush" Nói cho cụ thể, Hoa Kỳ có chiến lược gì thiết thực và khả tín tại Iraq - dễ hiểu và kiểm chứng được- trong toàn bộ cuộc chiến chống khủng bố" Chưa ai thấy rõ chiến lược đó, chỉ thấy lính Mỹ bị giết, lãnh đạo Mỹ tại Iraq đổi thay như chong chóng và nội bộ cãi vã về trách nhiệm viết diễn văn!
Nếu không thuyết phục được dư luận, ông Bush sẽ để cho giới lãnh đạo Dân chủ lên cầm quyền vào năm 2005. Với kết quả ra sao thì chưa ai dám nghĩ đến...
Gửi ý kiến của bạn