Đây là một cuộc chạy đua với thời gian hết sức gay gắt, và chỉ cần nhà nước Hà Nội trễ nãi chút xíu thì nhiều ngàn công nhân Việt có thể mất việc - và cùng lúc sẽ là một thiệt hại lớn cho kỹ nghệ may dệt cả nước. Tình hình này được nhật báo Asian Wall Street Journal phân tích rằng chỉ trong vài tháng tới là sẽ có chuyện xảy ra chứ không để lâu xa gì. Đây là chỗ để chính phủ Hà Nội cần phải ý thức thâm sâu hơn về tính khẩn cấp của tiến trình cải cách, và phải lấy đây làm ưu tiên trong mọi nghị trình.
Trong hai năm qua, các nhà đầu tư nước ngoài đã nhìn thấy Việt Nam như một cơ xưởng chi phí rẻ, đặc biệt lại hấp dẫn thêm nhờ bản thương ước Việt-Mỹ. Tuy nhiên, một bản hiệp định về hàng may dệt ký ở Washington trong tháng 4-2003 đã ghìm chân sức tăng ngành may dệt Việt Nam.
Nhìn ngược lại các con số năm ngoái, chúng ta có thể thấy ảnh hưởng trên khu vực này rõ ràng hơn. Tính từ tháng 1 tới tháng 10-2003, khoảng 55% tổng số hàng may dệt xuất cảng của VN là đưa vào Hoa Kỳ; trong cùng thời kỳ đó, Việt Nam xuất cảng 1.7 tỉ đô la hàng hóa vào Hoa Kỳ, tức là tăng 155% so với cùng thời kỳ năm trước.
Các chuyên gia kinh tế nói là chỉ có một con đường duy nhất để giữ gìn tốc độ cao: VN phải gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới WTO không được trễ hơn năm 2005, để với tư cách thành viên WTO để tiếp cận thị trường rộng lớn hơn nhờ vào luật lệ toàn cầu áp dụng cho ngành may dệt. Và việc gia nhập WTO sẽ xóa bỏ hết các hạn ngạch quotas vào hàng may dệt xuất cảng VN.
Vấn đề chỉ là: vòng thương thuyết kế tiếp về việc gia nhập WTO của VN dự kiến là vào tháng 4. Nghĩa là chỉ còn hai tháng nữa là nói chuyện. Thời gian rất là hẹp, và cơ hội để được vào WTO cũng chưa sáng sủa gì.
Một thời điểm để nhắc nhở VN là vào ngày 1-5-2004, khi chế độ hạn ngạch của Mỹ áp dụng vào hàng may dệt xuất cảng VN. Các xưởng dệt Hoa Kỳ từ lâu vẫn theo dõi sức tăng mau chóng của hàng may dệt VN, xem đó cũng hệt như cơ nguy hàng may dệt Trung Quốc. Chính các xưởng may dệt Mỹ đã vận động để dựng rào mậu dịch đối với hàng VN, bất kể các hệ thống cửa tiệm bán lẻ Hoa Kỳ đã bênh vực VN, xem VN như một nguồn cung cấp hàng mới để Hoa Kỳ chia bớt nguồn nhập từ Hoa Lục.
Hiệp định này cho tối đa 38 loại hàng may dệt với trị giá ước lượng 1.7 tỉ đô la cho năm 2003; và trong các năm kế tiếp, thì hạn ngạch cho phép tăng hàng năm 7% đói với các mặt hàng bông sợi (cotton) và cho tăng 2% đối với các mặt hàng len (wool).
Cũng chính việc Hà Nội đối phó với hiệp định này đã cho thấy quá nhiều sơ hở trong cách quản trị của chế độ. Nhà phân tích Margot Cohen của AWSJ nhìn thấy rằng cán bộ CSVN như dường bị tràn ngập bởi sự phức tạp của công việc quản trị hàng may dệt xuất cảng. Các cán bộ đã vẽ ra một công thức phức tạp để phân chia hạn ngạch trong đó dựa theo thành quả quá khứ, khả năng hiện tại, vị trí và các đơn đặt hàng từ các khách hàng lớn. Nhưng rồi những màn gian lận xuất hiện, và rồi các hãng xưởng thưa kiện là có một số cơ xưởng có quá nhiều hạn ngạch trong khi nhiều hãng xưởng khác nhận quá ít, thế là cán bộ cứ đổi luật hạn ngạch liên tục thôi.
Geoffrey Paul, giám đốc Fashion Garments Ltd. Ơû tỉnh Đồng Nai, nhận xét, "Trong năm đầu tiên, [chính phủ CSVN] không thể làm mọi chuyện đúng đắn nổi."
Benny Liu, giám đốc một xưởng may ở Sài Gòn, nói xưởng may của ông lỗ 50,000 Mỹ Kim trong ba tháng liên tục. Nếu ông chủ mà thua lỗ, thì phải hiểu là thợ còn đói thê thảm nhiều lần. Thế là lương thợ bèn bị tụt dốc, vì hãng xưởng bắt đầu trả ít hơn cho sản phẩm, buộc nhiều công nhân đành phải bỏ nghề, và rồi năng suất sụt giảm.
Yi Dong Hwan, chủ tịch hội các ông chủ xưởng may Triều Tiên Korean Garment Manufacturers' Association ở Hà Nội, than thở về thời kỳ này, "Mọi chuyện đang ngày càng tệ hại hơn. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác. Chúng tôi chỉ còn lo sống sót mà thôi."
Các hãng xưởng VN vùng vẫy bằng cách đưa người đi tìm và mở rộng thị trường mới tại Liên Aâu (nơi còn dùng hạn ngạch), hay sang Uùc Châu, Nhật và các thị trường không hạn ngạch khác.
Tình hình này cực kỳ là khẩn cấp. Đây là chỗ nhà nước Hà Nội phải ý thức thâm sâu về nhu cầu gia nhập WTO - không đơn giản là chậm trễ thì sẽ mất vài chục đơn đặt hàng hay là mất vài chục ngàn việc làm trong ngành may dệt, mà chính là sẽ mất một cơ hội ngàn vàng để vào một ngôi chợ khổng lồ hơn, và là cánh cửa để đưa cả nước vào luật chơi quốc tế... Còn nếu Hà Nội muốn theo gương thiên đàng xã hội chủ nghĩa Bắc Hàn, Cuba thì lại là chuyện khác.
Trong hai năm qua, các nhà đầu tư nước ngoài đã nhìn thấy Việt Nam như một cơ xưởng chi phí rẻ, đặc biệt lại hấp dẫn thêm nhờ bản thương ước Việt-Mỹ. Tuy nhiên, một bản hiệp định về hàng may dệt ký ở Washington trong tháng 4-2003 đã ghìm chân sức tăng ngành may dệt Việt Nam.
Nhìn ngược lại các con số năm ngoái, chúng ta có thể thấy ảnh hưởng trên khu vực này rõ ràng hơn. Tính từ tháng 1 tới tháng 10-2003, khoảng 55% tổng số hàng may dệt xuất cảng của VN là đưa vào Hoa Kỳ; trong cùng thời kỳ đó, Việt Nam xuất cảng 1.7 tỉ đô la hàng hóa vào Hoa Kỳ, tức là tăng 155% so với cùng thời kỳ năm trước.
Các chuyên gia kinh tế nói là chỉ có một con đường duy nhất để giữ gìn tốc độ cao: VN phải gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới WTO không được trễ hơn năm 2005, để với tư cách thành viên WTO để tiếp cận thị trường rộng lớn hơn nhờ vào luật lệ toàn cầu áp dụng cho ngành may dệt. Và việc gia nhập WTO sẽ xóa bỏ hết các hạn ngạch quotas vào hàng may dệt xuất cảng VN.
Vấn đề chỉ là: vòng thương thuyết kế tiếp về việc gia nhập WTO của VN dự kiến là vào tháng 4. Nghĩa là chỉ còn hai tháng nữa là nói chuyện. Thời gian rất là hẹp, và cơ hội để được vào WTO cũng chưa sáng sủa gì.
Một thời điểm để nhắc nhở VN là vào ngày 1-5-2004, khi chế độ hạn ngạch của Mỹ áp dụng vào hàng may dệt xuất cảng VN. Các xưởng dệt Hoa Kỳ từ lâu vẫn theo dõi sức tăng mau chóng của hàng may dệt VN, xem đó cũng hệt như cơ nguy hàng may dệt Trung Quốc. Chính các xưởng may dệt Mỹ đã vận động để dựng rào mậu dịch đối với hàng VN, bất kể các hệ thống cửa tiệm bán lẻ Hoa Kỳ đã bênh vực VN, xem VN như một nguồn cung cấp hàng mới để Hoa Kỳ chia bớt nguồn nhập từ Hoa Lục.
Hiệp định này cho tối đa 38 loại hàng may dệt với trị giá ước lượng 1.7 tỉ đô la cho năm 2003; và trong các năm kế tiếp, thì hạn ngạch cho phép tăng hàng năm 7% đói với các mặt hàng bông sợi (cotton) và cho tăng 2% đối với các mặt hàng len (wool).
Cũng chính việc Hà Nội đối phó với hiệp định này đã cho thấy quá nhiều sơ hở trong cách quản trị của chế độ. Nhà phân tích Margot Cohen của AWSJ nhìn thấy rằng cán bộ CSVN như dường bị tràn ngập bởi sự phức tạp của công việc quản trị hàng may dệt xuất cảng. Các cán bộ đã vẽ ra một công thức phức tạp để phân chia hạn ngạch trong đó dựa theo thành quả quá khứ, khả năng hiện tại, vị trí và các đơn đặt hàng từ các khách hàng lớn. Nhưng rồi những màn gian lận xuất hiện, và rồi các hãng xưởng thưa kiện là có một số cơ xưởng có quá nhiều hạn ngạch trong khi nhiều hãng xưởng khác nhận quá ít, thế là cán bộ cứ đổi luật hạn ngạch liên tục thôi.
Geoffrey Paul, giám đốc Fashion Garments Ltd. Ơû tỉnh Đồng Nai, nhận xét, "Trong năm đầu tiên, [chính phủ CSVN] không thể làm mọi chuyện đúng đắn nổi."
Benny Liu, giám đốc một xưởng may ở Sài Gòn, nói xưởng may của ông lỗ 50,000 Mỹ Kim trong ba tháng liên tục. Nếu ông chủ mà thua lỗ, thì phải hiểu là thợ còn đói thê thảm nhiều lần. Thế là lương thợ bèn bị tụt dốc, vì hãng xưởng bắt đầu trả ít hơn cho sản phẩm, buộc nhiều công nhân đành phải bỏ nghề, và rồi năng suất sụt giảm.
Yi Dong Hwan, chủ tịch hội các ông chủ xưởng may Triều Tiên Korean Garment Manufacturers' Association ở Hà Nội, than thở về thời kỳ này, "Mọi chuyện đang ngày càng tệ hại hơn. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác. Chúng tôi chỉ còn lo sống sót mà thôi."
Các hãng xưởng VN vùng vẫy bằng cách đưa người đi tìm và mở rộng thị trường mới tại Liên Aâu (nơi còn dùng hạn ngạch), hay sang Uùc Châu, Nhật và các thị trường không hạn ngạch khác.
Tình hình này cực kỳ là khẩn cấp. Đây là chỗ nhà nước Hà Nội phải ý thức thâm sâu về nhu cầu gia nhập WTO - không đơn giản là chậm trễ thì sẽ mất vài chục đơn đặt hàng hay là mất vài chục ngàn việc làm trong ngành may dệt, mà chính là sẽ mất một cơ hội ngàn vàng để vào một ngôi chợ khổng lồ hơn, và là cánh cửa để đưa cả nước vào luật chơi quốc tế... Còn nếu Hà Nội muốn theo gương thiên đàng xã hội chủ nghĩa Bắc Hàn, Cuba thì lại là chuyện khác.
Gửi ý kiến của bạn