Hôm nay,  

Phỏng Vấn Ông Lê Phụng Về Nghị Quyết 36 Của Cs

12/04/200400:00:00(Xem: 5265)
LGT: Trước khí thế đấu tranh ngày càng lớn mạnh, cùng những chiến thắng qua chiến dịch Cờ Vàng của cộng đồng người Việt tại Mỹ, và chiến dịch chống VTV-4 của cộng đồng người Việt tại Úc, CSVN đã nhận ra sức mạnh mới của cộng đồng người Việt hải ngoại, và nguy cơ của chế độ trước làn sóng đấu tranh giành tự do dân chủ đang dồn dập đổ vô VN từ khắp nơi trên thế giới. Nhằm cứu nguy chế độ, ngày 26 tháng 3 vừa qua, CS đã cho công bố Nghị Quyết 36 do Phan Diễn ký. Theo lời ông Lê Phụng, Phan Diễn là một trong hai người con trai của Phan Thanh, người đầu tiên do đảng cộng sản Đông Dương giật dây ra tranh cử và đắc cử Viện dân biểu Trung Kỳ vào năm 1937. Chính thời đó, cụ Ngô Đình Diệm và cụ Ngô Đình Khôi đã nhận ra chân tướng CS của Phan Thanh. Riêng Phan Diễn, người được mô tả là nham hiểm, nét mặt thâm trầm, lông mày cúp, có tướng gian thần. Trước đây Phan Diễn từng là bí thư thành uỷ Đà Nẵng, và hiện y có chân trong Ban bí thư và là Trưởng ban chỉ đạo trung ương đảng CSVN. Để có thể hiểu được phần nào âm mưu của CS đối với cộng đồng người Việt hải ngoại qua Nghị Quyết 36, đặc biệt trong số báo tuần này, Sàigòn Times xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả bài phỏng vấn Ông Lê Phụng, vừa được thực hiện vào tối Thứ Hai, 5 tháng 4 vừa qua; Bài phân tích trên nhật báo Người Việt của ông Ngô Nhân Dụng, đăng ở trang 2; và một số ý kiến của người Việt hải ngoại về Nghị Quyết 36, mà toà soạn nhận được qua email từ một số thân hữu, được đăng ở trang Diễn Đàn Độc Giả 61, 62. Sau đây, kính mời quý độc giả theo dõi bài phỏng vấn Ông Lê Phụng.

*

SGT: Kính thưa ông Lê Phụng, ngày 26 tháng 3 vừa qua, Bội chính trị CS Việt Nam đã cho công bố Nghị Quyết 36 để đặc biệt đối phó với người Việt hải ngoại. Ông đánh giá Nghị Quyết này như thế nào"
Đáp: Thưa ông, nguyên văn tên của nghị quyết này là “Nghị quyết số 36-NQ/TƯ về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”, do Phan Diễn, Uỷ viên bộ chính trị CS ký vào ngày 26/3. Nghị quyết này chỉ là một trong những bước CS đã thông qua trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành TƯ lần thứ 7 khoá IX. Như vậy có nghĩa, Nghị quyết 36 chỉ là bề nổi, mang nội dung tuyên truyền, mỵ dân, đánh lừa dư luận trong nước cũng như hải ngoại. Còn thực chất bên trong, ta phải hiểu, Nghị quyết 36 là bước đi kế tiếp của CSVN trên con đường theo đuổi mục tiêu lũng đoạn, thao túng cộng đồng người Việt hải ngoại, để bóc lột tối đa chúng ta trên 3 phương diện chính yếu: Kinh tế, trí tuệ và ảnh hưởng chính trị của chúng ta đối với quốc gia sở tại. Để hiểu rõ hơn điểm này, tôi xin thưa là trong buổi phỏng vấn vào cuối tháng 3 vừa qua do phóng viên Cẩm Hà của báo Tuổi Trẻ ở Việt Nam thực hiện, ông Nguyễn Phú Bình, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao kiêm chủ tịch của cái gọi là “Chủ nhiệm Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài”, cũng đã lên tiếng thú nhận, “đây là lần đầu tiên một nghị quyết toàn diện về công tác người Việt ở nước ngoài được phổ biến công khai”. Qua lời thú nhận của Nguyễn Phú Bình, ta đủ thấy, trước đây, những cái gọi là “nghị quyết về công tác người Việt ở nước ngoài” của bộ chính trị CS đã có, và có rất nhiều, nhưng chúng được phổ biến bí mật. Còn riêng lần này thì CS cho phổ biến Nghị quyết 36 “công khai”. Vì vậy, tuy Nghị quyết 36 của CS được “phổ biến công khai lần đầu tiên”, nhưng nó chỉ là bước tiếp nối của đường lối bành trướng của CS tại hải ngoại. Nói cách khác, trên bề nổi, Nghị quyết 36 có vẻ là bước ngoặt chiến lược của CS. Nhưng bề chìm, ta phải thấy nó chỉ là bước ngoặt chiến thuật nằm trong đường lối chiến lược của CS mà ta đã dự đoán từ lâu. Và trong đấu tranh với CS, tôi nghĩ là chúng ta phải có đủ khả năng nhìn xuyên qua những gì kẻ thù “phổ biến công khai” để thấy được những âm mưu mà kẻ thù muốn âm thầm làm cũng như những gì kẻ thù CS muốn che giấu.

SGT: Nếu ông cho đây là bước ngoặt chiến thuật của CS, thì nguyên nhân nào khiến CS phải áp dụng bước ngoặt này"
Ông L.Phụng: Tôi nghĩ nguyên nhân đầu tiên là do lòng tham không đáy của CS. Cụ thể là về kinh tế, cộng sản muốn người Việt hải ngoại phải gửi tiền về Việt Nam nhiều gấp bội so với hiện nay. Như ông đã biết, hiện nay số tiền người Việt hải ngoại gửi về Việt Nam trung bình mỗi năm trên dưới 3 tỷ Mỹ kim. Đây là số tiền khổng lồ so với ngân sách của CSVN. Nhưng số tiền này chỉ bằng phần rất nhỏ so với tổng lợi tức trên dưới 50 tỷ của cộng đồng người Việt hải ngoại. CS biết rõ số tiền khổng lồ này nên chúng muốn trong những năm tới, phải tìm mọi cách để gia tăng gấp bội số tiền người Việt hải ngoại gửi về Việt Nam. CS chúng cũng biết là số tiền khổng lồ người Phi ở hải ngoại gửi về nước mỗi năm chiếm 35% tổng số lợi tức của họ, nên CS tính toán phải tìm đủ cách để trung bình mỗi năm người Việt hải ngoại cũng phải gửi về VN từ 20% cho đến 30% tổng số lợi tức 50 tỷ đó. Nghĩa là thay vì CS chỉ nhận được mỗi năm 3 tỷ như hiện nay, CS muốn mỗi năm người Việt hải ngoại phải gửi cho chúng từ 10 tỷ đến 15 tỷ. Còn về đầu tư của người Việt hải ngoại tại Việt Nam thì có thể nói là cho đến nay, con số đó rất ít ỏi, và CS đã nhận ra sự thất bại của họ trong lĩnh vực này nên Nghị quyết 36 của chúng chính là nhằm giải quyết những thất bại của chúng trong đầu tư.
Cái nguyên nhân kế tiếp là CS muốn thông qua Nghị quyết 36, tạo cho người Việt hải ngoại, nhất là thành phần khoa bảng, trí thức, có ảo tưởng là họ sẽ có được cơ hội đầu tư trí tuệ tại Việt Nam để phụng sự đất nước và dân tộc. Những ai mắc vô ảo tưởng này sẽ bị CS lợi dụng tiền bạc và trí tuệ của họ ngay tại quốc gia sở tại, vì CS sẽ biến họ trở thành một động lực chính trị, hậu thuẫn cho CS trong các mối bang giao song phương cũng như đa phương trên thị trường quốc tế. Những năm trước đây, CS đặt trọng tâm khai thác người Việt hải ngoại trên phương diện kinh tế thuần tuý và trực tiếp qua việc gửi tiền và đầu tư tại VN. Nhưng trong bối cảnh mở cửa bang giao với quốc tế hiện nay, CS nhận ra sức mạnh vô cùng to lớn của cộng đồng người Việt hải ngoại nếu chúng buộc được cộng đồng đó hậu thuẫn cho chúng. Chính trong phần nhận định về người Việt Nam ở hải ngoại, Nghị quyết 36 đã nêu rõ, tôi xin được trích nguyên văn ở đây: “Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có tiềm lực kinh tế nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài và quốc tế, có khả năng tìm kiếm đối tác và làm cầu nối với các doanh nghiệp, tổ chức trong nước. Nhiều trí thức có trình độ học vấn và chuyên môn cao; một số người giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan, cơ sở nghiên cứu, đào tạo, các công ty và tổ chức quốc tế, có khả năng tạo dựng quan hệ với các cơ sở kinh tế, khoa học ở nước sở tại.”
Qua đoạn tôi vừa trích, ông thấy CS đã nhìn thấy sức mạnh chính trị của người Việt hải ngoại, nhất là thành phần trí thức, và CS cũng nhận thấy, nếu để thành phần trí thức này về VN thì không có lợi cho CS bằng để họ lại ở hải ngoại. Nhưng để có thể nắm được thành phần trí thức tại hải ngoại thì CS phải dùng tới miếng mồi quốc gia, dân tộc, tình đồng hương, đồng song, và những đói khổ của người Việt trong nước phải được CS bi thảm hoá tối đa. Có như vậy chúng mới đánh thức được những tấm lòng cao thượng của trí thức VN hải ngoại và lôi kéo được họ. Và nếu để ý một chút, ta sẽ thấy đúng như quý báo đã có lần đề cập cách đây không lâu, là mấy năm gần đây, có một số nhà khoa bảng của người Việt hải ngoại đã viết bài, vận động hành lang, hậu thuẫn cho CS Việt Nam những khi CS có xung đột giao thương với quốc gia nơi có người Việt cư ngụ, tỷ dụ như tranh chấp với Mỹ về cá basa, về tôm đông lạnh, hay CS đòi Mỹ bồi thường về chất độc da cam (agent orange) trong thời gian gần đây chẳng hạn. Nhưng đó chỉ là hiện tại. Tương lai, CS tính toán là một khi chúng nắm được cộng đồng người Việt hải ngoại, chúng sẽ buộc cộng đồng chúng ta phải vận động chính quyền sở tại hậu thuẫn cho những buôn bán có lợi cho CS. Những vận động này sẽ được CS sử dụng qua nhiều hình thức kể cả việc buộc người Việt hải ngoại biểu tình hậu thuẫn cho CS. Tôi nói vậy là có cơ sở vì năm ngoái, ở Mỹ, chính toà đại sứ CS đã có dự tính vận động một số người Việt làm ăn với CS tổ chức cuộc biểu tình chống lại chính quyền Mỹ để bảo vệ thị trường cho cá basa của VN nhập cảng...
Nguyên nhân thứ ba khiến CS phải cho công bố Nghị quyết 36 là do những thất bại của CS trong việc xâm nhập vô cộng đồng người Việt hải ngoại. Nửa thế kỷ trước, ở Việt Nam do trình độ dân trí thấp, hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm, cùng những hậu thuẫn của quốc tế CS, nên CSVN chỉ mất có 10 năm để cướp Miền Bắc, và 15 năm để cướp Miền Nam. Vậy mà từ 1975 đến nay đã gần 30 năm, trong khi CS chúng có cả một guồng máy chính quyền, công an, quân đội, tiền bạc bóc lột được của 80 triệu dân, cộng thêm tư thế ngoại giao của CS trên chính trường quốc tế, nhưng cho đến nay CS vẫn bó tay bất lực, chưa thao túng được 3 triệu người Việt hải ngoại. Bằng chứng là bất cứ khi nào, hễ có lãnh tụ CSVN mon men đến bất cứ quốc gia nào, cũng đều bị người Việt chúng ta biểu tình, chống đối, làm cho chúng phải cắm đầu chui cửa hậu. Rồi điểm quan trọng nữa là chiến thắng ngày càng dồn dập trong chiến dịch vận động cờ vàng tại Mỹ, và chiến thắng mới đây của cộng đồng người Việt tự do tại Úc qua cuộc vận động không cho đài SBSTV chiếu chương trình VTV4 của CS. Chính vì những chiến thắng này đã khiến CS nhận ra lỗi lầm nghiêm trọng của chúng là chúng đã đánh giá nhầm lập trường và sức mạnh chính trị của cộng đồng người Việt hải ngoại. Nhận ra nhầm lẫn này nên trong phần II, “Chủ trương và phương hướng công tác đối với người VN ở nước ngoài trong thời gian tới”, Nghị quyết 36 của CS cũng ghi rõ: “Người Việt Nam ở nước ngoài là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các nước.” Từ nhận định đó tôi thấy CS muốn sử dụng sức mạnh chính trị của cộng đồng người Việt hải ngoại hậu thuẫn cho chính sách ngoại giao của CS.
Vâng, trên đây là một số lý do chính khiến cộng sản ban hành Nghị quyết 36 và cho phổ biến công khai, cùng khắp ở trong nước cũng như ở các toà đại sứ, lãnh sự CS. Ngoài ra, CS cũng đã bí mật cho phổ biến Nghị quyết 36 đến các mạng lưới cơ sở nằm vùng để chúng học tập, thảo luận và tuyên truyền.

SGT: Theo ông, khả năng CS thực thi Nghị quyết 36 sẽ đến đâu"
Đáp: Theo tôi thì nếu chúng ta biết cảnh giác và đoàn kết thì khả năng thực thi Nghị quyết 36 của CS rất hạn chế. Lý do là kể từ sau 1975, người Việt trong nước cũng như hải ngoại đều hiểu rõ bộ mặt thật của CS. Vì vậy, mọi trò mỵ dân rẻ tiền, hay mua chuộc, dụ dỗ của CS đối với đại đa số người Việt đều không có hiệu quả như trước 1954 ở Miền Bắc, và trước 1975 ở Miền Nam và hải ngoại. Tôi nhớ là trong những năm của thập niên 1960, CS đã dụ dỗ cả chục ngàn Việt kiều ở Pháp, Tân Thế Giới (New Caledonia), bán nhà cửa, gom góp tiền bạc, của cải về Bắc VN “xây dựng đất nước” mà thực tế là ai về cũng bị CS cướp trắng tay. Tôi nói điều này là có rất nhiều người Việt tỵ nạn ra đi từ Hà Nội, Hải Phòng biết rất rõ. Tôi có quen một người bạn, trước làm đầu bếp ở khách sạn Le Meridien Noumea, bên Tân Thế Giới, ông có cả một sản nghiệp vững vàng. Đến khi nghe lời CS về Hải Phòng, bị CS cướp tất cả, mới tỉnh ngộ, sau này lại vượt biên sang Mỹ. Nói chuyện này để quý vị thấy trước đây CSVN dễ lừa Viêät kiều. Chứ còn bây giờ thì rất ít người bị CS lừa. Bây giờ, người Việt dù bất cứ ai, ở bất cứ đâu, nếu đã có lòng yêu nước chân thành, cũng đều hiểu rõ, họ là một bộ phận của dân tộc VN, chứ chẳng bao giờ là bộ phận của CSVN. Người Việt hải ngoại có thể gửi tiền về VN giúp đỡ gia đình, sửa sang mồ mả ông cha, giúp đỡ người nghèo khổ, hay chính họ về thăm quê hương, nhưng không khi nào họ bị CS tuyên truyền. Bằng chứng rõ ràng là cuối năm ngoái, chỉ riêng trên Sydney đã có 13,000 người đại diện cho cả chục ngàn gia đình người Việt biểu tình chống VTV4 của CS thì ta đủ hiểu, trong thâm tâm, không có người Việt nào ưa chế độ CS. Nói vậy có nghĩa là CS càng ra nghị quyết, càng mưu mô, tung thủ đoạn để tấn công người Việt hải ngoại bao nhiêu, thì người Việt hải ngoại càng cảnh giác, càng tăng cường sức đề kháng, chống đối CS quyết liệt bấy nhiêu.

SGT: Thưa ông, như vậy, bên cạnh dã tâm và tham vọng của CS được thể hiện trong Nghị quyết 36, ông còn thấy đó là những dấu hiệu cho thấy sự thất bại của CSVN"
Ông L.Phụng: Vâng, trên phương diện nào đó, tôi nghĩ đó là một dấu hiệu chứng tỏ CS chúng đã thất bại trong âm mưu lừa đảo cộng đồng người Việt hải ngoại. Vì thất bại, nên chúng phải cho ra đời Nghị quyết 36. Tuy nhiên, những bất lợi này sẽ được khai thác đến đâu thì cũng còn tuỳ thuộc vào sự cảnh giác, tinh thần đoàn kết và khả năng vận động sức mạnh chống cộng của cộng đồng người Việt hải ngoại. Hay nói đúng hơn, bên cạnh những dấu hiệu cho thấy sự thất bại của CS, Nghị quyết 36 còn báo hiệu những thủ đoạn nguy hiểm mới của CS đối với cộng đồng người Việt hải ngoại. Thường thì sau khi bị thua cuộc, bị thất bại, chắc chắn CS sẽ tàn nhẫn hơn, thủ đoạn hơn, và nguy hiểm hơn. Vì vậy, chúng ta phải cảnh giác và đoàn kết để đối phó với Nghị quyết 36 này của CS.

SGT: Thưa ông, ông vừa viết, bên cạnh những dấu hiệu cho thấy sự thất bại của CS, Nghị quyết 36 còn báo hiệu những thủ đoạn mới nguy hiểm hơn của CS. Những thủ đoạn đó là gì, thưa ông"
Ông L.Phụng: Cảm ơn ông đã hỏi câu hỏi này. Sự thực thì phần lớn những điều được CS đề cập trong Nghị quyết 36 đều là những điều được CS âm thầm thực hiện trong những năm gần đây. Tuy nhiên, cũng có những điều ghi trong Nghị quyết 36, CS đã muốn tay chân của chúng ở hải ngoại làm từ lâu nhưng tay sai của chúng không làm được, nên trong giai đoạn tới, CS sẽ tạo nhiều áp lực đồng thời gia tăng tiền bạc mua chuộc, để buộc họ phải làm. Tôi lấy thí dụ như trong Nghị quyết 36, ở phần II, mục 2, có câu ghi là CS sẽ vận động những thành phần thân cộng “chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc”. Ở mục 4 phần III, “Nhiệm vụ chủ yếu”, cũng có đoạn ghi là CS sẽ buộc thành phần thân cộng “Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả với những người còn có định kiến, mặc cảm với Nhà nước và chế độ ta”. Rồi cũng ở phần III, mục 5, có đoạn ghi là CS sẽ “Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là cho thế hệ trẻ. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên người Việt Nam ở nước ngoài”. Đặc biệc, cũng ở phần III, mục 7, Nghị quyết cũng ghi rõ là CS sẽ “Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở ngoài nước”...
Như vậy là qua những điểm tôi vừa nêu, ta sẽ thấy, trong giai đoạn tới, cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ phải đối diện với một số khó khăn quan trọng. Thứ nhất là mức độ trà trộn của thành phần thân cộng sẽ gia tăng trong cộng đồng. Từ giai đoạn ẩn nấp, né tránh cộng đồng trước đây, nay hàng ngũ thân cộng sẽ được lệnh trà trộn, gia tăng sự hiện diện trong các sinh hoạt của cộng đồng, để qua giao tiếp, chúng sẽ khiến ta cả nể, ngại ngùng, thậm chí e sợ, không dám trực tiếp lên tiếng đấu tranh với chúng. Từ những giao tiếp này, chúng sẽ mượn cớ vì lợi ích chung của đất nước, của dân tộc, để lôi kéo người này người nọ đi theo xu hướng xoá bỏ hận thù, quên lãng quá khứ, bắt tay hoà hợp hoà giải với CS. Chúng cũng sẽ mượn bình phong “lợi ích dân tộc”, “bảo vệ sự ổn định của cộng đồng”, “chống gây phân hoá” để rồi chúng sẽ “chủ động tấn công” công khai với ta trên các cơ quan truyền thông do chúng hỗ trợ, nuôi dưỡng. Ngoài ra, CS cũng sẽ chọn người “thích hợp” với từng người để chủ động tiếp xúc, mua chuộc dụ dỗ, hoặc tạo áp lực đối với những người có lập trường chống CS kiên định, những người mà CS chụp mũ trong Nghị quyết là “còn có định kiến, mặc cảm với Nhà nước và chế độ ta”.
Riêng việc CS tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh thiếu niên người Việt ở nước ngoài cũng là một âm mưu vô cùng nham hiểm, nhằm tạo mối quan hệ “ra vẻ” tình người, tình quê hương đất nước, giữa giới trẻ trong nước với giới trẻ hải ngoại, để qua đó, dần dần đưa giới trẻ hải ngoại vô quỹ đạo của CS. Nguy hiểm nhất trong Nghị quyết 36 chính là việc CS đã biết đưa ra chiêu bài “giúp người Việt hải ngoại hội nhập, thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp sở tại” để mua chuộc sự hậu thuẫn từ chính quyền nơi người Việt hải ngoại sinh sống. Để làm điều này, CSVN sẵn sàng thực hiện những thủ đoạn như bỏ tiền, bỏ của, bỏ công sức để "đóng góp" với chính quyền địa phương, tiểu bang, liên bang... hoặc giả vờ bảo trợ các chiến dịch thiện nguyện của quốc gia bản xứ, giả vờ thực hiện những chiến dịch “giúp đỡ” người Việt hải ngoại. Đây là sự đầu tư “thả con tôm bắt con cá” của CS. Vì thông qua những giúp đỡ có vẻ “bất vụ lợi” hoặc làm ra vẻ “thiện nguyện” đó, CS sẽ có được sự hậu thuẫn của chính quyền sở tại. Rồi chúng sẽ dùng uy tín của chính quyền sở tại, tạo sự hiện hữu của chúng trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Kế tiếp, CS sẽ xảo quyệt dùng sức mạnh của cộng đồng người Việt hải ngoại tạo áp lực với dân biểu và chính quyền địa phương, để bảo vệ quyền lợi giao thương cho CS. Khi đó, chính quyền sở tại nhận ra âm mưu của CS thì đã muộn.
Điểm bất lợi quan trọng nữa là cũng trong phần III, ở điều 5, CS nêu rõ, “Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho kiều bào, cải tiến các chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh và qua mạng internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt”. Qua điều này ta thấy CS quyết tâm bằng mọi giá, chiếm lĩnh tâm hồn và trí tuệ thế hệ trẻ VN hải ngoại. Đây là điểm đáng lo ngại nếu cộng đồng chúng ta không có được những đường lối cụ thể và kịp thời, trong việc giảng dậy tiếng Việt cho con em. Và như vậy thì quả thực những người Việt khoa bảng, trí thức cùng các vị lãnh đạo trong cộng đồng tỵ nạn CS, đã không làm tròn bổn phận đối với lương tâm và lập trường của 3 triệu người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại.

SGT: Xin hỏi ông câu cuối. Từ 1975 đến nay đã gần 30 năm. Trải qua thời gian tương đối dài đó, một số người Việt có ảo tưởng cho rằng người CSVN đã phần nào thay đổi. Nhận xét đầy ảo tưởng này sai ở chỗ nào"
Ông L.Phụng: Bề ngoài mà nói, CS tỏ vẻ thay đổi để đánh lừa dư luận, nhưng bản chất vô luân và tàn ác của CS thì chắc chắn là không. Tôi nói vậy có nhiều người cho tôi là cực đoan. Xin thưa, tôi không hề cực đoan chút nào. Là những người tham gia một tổ chức đấu tranh suốt hơn chục năm, chúng tôi luôn luôn mềm mỏng và uyển chuyển trong cuộc đấu tranh với CS. Nhưng khi tôi nói, về bản chất, CS không hề thay đổi, là tôi nói đúng với sự thực về con người CS. Nếu những ai có ảo tưởng cho rằng CS thay đổi, xin những người đó mở to mắt mà nhìn, chịu vểnh tai ra mà nghe, và chịu khó dùng trí khôn của mình mà suy nghĩ, thì họ cũng sẽ đồng ý với tôi, vì chính những người CS cao cấp nhất, như Trần Bạch Đằng, Võ Nguyên Giáp, Mai Chí Thọ, Bùi Tín, Vũ Thư Hiên... trong giai đoạn gầy đây cũng đều thi nhau lên tiếng tố cáo những tội ác của CS. Rồi ngay cả nhà văn Dương Thu Hương, người đã từng là đảng viên cộng sản, từng xung phong đi theo đảng CS để “giải phóng Miền Nam”, cũng đã tố cáo CS trong bài “Những Tên Tôi Tớ Cho Ngoại Bang” qua những dòng chữ rất nghiêm khắc. Tôi chỉ xin trích một đoạn như sau: “Trong lịch sử bốn ngàn năm, triều đình Cộng sản là triều đình duy nhất dạy cho con gái, con dâu vu khống bố hiếp dâm; dạy con trai, con rể chỉ vào mặt bố "đả đảo thằng bóc lột"; dạy cho láng giềng tố cáo điêu chác, đâm chém, dày xéo mồ mả của nhau... Tất cả những ai chưa hoàn toàn quên lãng, hẳn hiểu rõ điều đó. Khi con người đã đủ can đảm vu khống, nhục mạ ngay bố mẹ đẻ của mình thì họ thừa sự nhẫn tâm để làm những điều ác gấp ngàn lần như thế với tha nhân”.
Đó, người CS họ nói về CS như vậy đó. Và tôi biết, bản chất người CS không những tàn ác, bất lương, mà quan trọng hơn nữa là họ không hề biết đến trời đất, Chúa Phật, đến tổ tiên lễ giáo, nên họ chẳng hề ân hận, ăn năn, hối lỗi gì cả. Đã hơn nửa thế kỷ kể từ khi chiếm được Miền Bắc năm 1954, và 30 năm kể từ khi chiếm được Miền Nam, người CS Việt Nam vẫn không có can đảm và lương tâm để ăn năn hối hận về những tội ác hiển nhiên mà họ đã gây ra đối với dân tộc VN. Tội ác thứ nhất là qua bài học thống nhất hai miền Đông và Tây Đức mà không đổ máu, triển vọng sẽ thống nhất Nam Bắc Hàn trong hoà bình, rồi tương lai Đài Loan sẽ hợp nhất với Trung Quốc, ta thấy rõ CSVN đã sai lầm trong việc xua quân xâm lăng Miền Nam, khiến gần 4 triệu người Việt bị chết, cả chục triệu người bị thương ở cả hai miền của đất nước suốt mấy chục năm dài. Vậy mà cho đến nay, ta có nghe người CS nào tỏ ra ân hận, xám hối hay không" Rồi tội ác nghiêm trọng thứ hai của CS, là trong cuộc chiến tranh VN, CS đã phạm phải phải nhiều tội ác chiến tranh man rợ, nhất là vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Vậy mà cho đến nay, ta có nghe người CS nào tỏ ra ân hận, xám hối hay không" Thứ ba, chính việc CS ngang nhiên chà đạp các quyền tự do, dân chủ và nhân quyền; cùng những tang thương do CS gây ra trong cải cách ruộng đất tại Miền Bắc, trong các đợt đánh tư sản và các đợt cải tạo tại Miền Nam, là những nguyên nhân khiến người dân VN phải bỏ nước vô Nam vào năm 1954, cũng như bỏ nước vượt biên sau tháng 4, 1975. Bao nhiêu người đã chết qua hai cuộc di cư vĩ đại đó" Vậy mà cho đến nay, ta có nghe người CS nào tỏ ra ân hận, xám hối hay không"
Trên đây chỉ là mội vài trong số hàng trăm ngàn tội ác do CS gây ra trên quê hương VN. Đó là những thực tế CS không thể nào chối cãi được. Và chỉ khi nào CS công khai và chân thành nhìn nhận những tội lỗi này, và chấp nhận cho người dân VN được tự do bầu cử, lập nên một chế độ dân chủ, khi đó, người Việt trong và ngoài nước, mới chấp nhận tha thứ cho CS. Tôi xin nhấn mạnh ở đây, chúng ta chỉ tha thứ cho CS khi nào CS biết ăn năn hối lỗi. Đây là điều kiện tiên quyết và bắt buộc phải có. Cũng giống như tôn giáo, dù Chúa hay Phật có bao dung và giầu lòng tha thứ đến đâu đi nữa thì Chúa Phật cũng chỉ tha thứ người có tội khi nào người đó biết ăn năn hối cải. Hiện tại ở VN cho thấy, CS chẳng những không ăn năn hối cải, mà chúng còn tiếp tục phạm thêm những tội ác mới khiến cả thế giới, trong đó có cả một số người CS, cũng lên án, thì không có lý nào, chúng ta là những nạn nhân của CS, lại tự động tha thứ những tội lỗi của CS. Tha thứ như vậy là chúng ta vừa thiếu khôn ngoan, vừa phản bội tổ tiên, dân tộc, vừa tự huỷ sức mạnh và uy tín của chính mình, đồng thời phản bội luôn cả lý tưởng tỵ nạn CS, cùng quốc gia đã có lòng cưu mang chúng ta. Làm như vậy, chẳng những người Việt yêu tự do trên khắp thế giới coi khinh chúng ta, mà ngay cả tụi CS chúng cũng coi thường chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hoan hỷ chào nhau cầu xưa quá bước Dặm đường im kẽ tóc với chân tơ Tan hợp cười òa. Kia vòm mây trắng Và bắt đầu. Và chấm hết. Sau xưa… . 4.2021 (Gửi hương linh bạn hiền Nguyễn Lương Vỵ, lễ 49 ngày)
Trong mọi hoàn cảnh Anh vẫn không ngừng hoạt động, Anh vẫn cứ đứng ở ngoài nắng - chữ của Mai Thảo. Với tôi, Nhật Tiến - Én Nhanh Nhẹn RS, vẫn cứ mãi là một Tráng Sinh Lên Đường
Lời dịch giả: Đây là bức tâm thư của cựu tổng thống George W. Bush gởi người dân Mỹ trong lúc cả nước đang sôi sục sau cái chết của George Floyd.
NYC với mình như căn nhà thứ hai, thế mà đã hơn một năm rồi mới lên lại. Thường thì hay lên mùa Giáng Sinh, hay Tháng Hai mùa đông để coi tuyết ở Central Park, và tháng Mười Một để coi lá vàng. Lần nầy chỉ mới tháng ba, nhưng có lý do
Xúc động với kỷ niệm. Thơ và nhạc đã nâng cảm xúc về những cái đẹp mong manh trong đời... Đêm Nhạc Người Về Như Bụi, và buổi ra mắt Tuyển Tập 39 Văn Nghệ Sĩ Tưởng Nhớ Du Tử Lê đã hoàn mãn hôm Thứ Ba 14/1/2019.
chiều rớt/xanh/ lưỡi dao, tôi khứng! chờ ... mưa tới. Hai câu cuối trong bài “chiều rớt/xanh/lưỡi dao” anh viết cuối tháng 9/2019 như một lời giã biệt. Và, cơn mưa chiều 7.10.2019 đã tới, anh thay áo mới chân bước thảnh thơi trở về quê cũ. Xin từ biệt anh: Du Tử Lê!
trong nhiều năm qua, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng trưởng ở mức hai con số, nhưng tỷ lệ quay trở lại thấp (chỉ từ 10% đến 40%) . Chi tiêu của khách du lịch quốc tế tại Việt Nam không cao
Theo bảng xếp hạng chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế năm 2018, Việt Nam đứng hạng 117/ 180 với mức điểm 33/100. Bao giờ mà chế độ hiện hành vẫn còn tồn tại thì “nạn nhũng nhiễu lạm thu” sẽ vẫn còn được bao che và dung dưỡng khắp nơi, chứ chả riêng chi ở Bộ Ngoại Giao
Chính phủ Hoa Kỳ đã hứa tài trợ 300 triệu đô la để làm sạch môi trường bị nhiễm chất độc da cam của phi trường Biên Hòa và hôm 5 tháng 12 là bắt đầu thực hiện việc tẩy rừa tại khu vực này, theo bản tin hôm 6 tháng 12 của báo Tuổi Trẻ Online cho biết như sau.
Hơn 1.000 người có thể đã bị giết bởi lực lượng an ninh ở Iran trong các cuộc biểu tình gần đây, theo một quan chức cấp cao của bộ ngoại giao cho biết hôm Thứ Năm
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.