Hôm nay,  

Luật Pháp Phổ Thông

09/10/200600:00:00(Xem: 1721)

[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn "Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh" dày 1,920 trang vừa được xuất bản. Qúy độc giả có thể mua sách qua internet bằng cách lên Website Google (google.com) đánh máy chữ "ho ledinh", rồi theo sự hướng dẫn của các websites.]

Hỏi (Ông Trần Minh Quy): Cách đây hơn 2 tháng, con tôi dùng thẻ tín dụng của người khác và đã cùng 2 người bạn của cháu book vé máy bay đi Melbourne chơi và ngủ lại tại khách sạn. Cách đây gần 3 tuần lễ, cảnh sát đã đến nhà tìm cháu nhưng cháu đi vắng, cảnh sát đã để giấy lại mời cháu ra trạm cảnh sát. Khi cháu về cháu đã ra trạm cảnh sát. Tại đây, sau khi thẩm vấn cháu đã bị cáo buộc tội "obtain valuable thing by deception." Cháu đã ra tòa một lần nhưng không chịu nhận tội. Hiện cháu đang được tại ngoại chờ ngày xét xử. Xin LS cho biết với tội trạng nêu trên nếu bị kết tội hình phạt sẽ như thế nào"

*

Trả lời: Điều 178BA của"Đa.o Luật Hình Sự 1900" (the Crimes Act 1900) quy định rằng: "Bất cứ ai bằng bất cứ mánh khóe lừa đảo nào thu đọat một cách thiếu lương thiện cho chính mình hoặc cho người khác bất cứ tiền bạc hoặc đồ vật có giá trị hoặc bất cứ lợi thế về tài chánh thuộc bất cứ lọai nào sẽ bị tù 5 năm." (Whosoever by any deception dishonestly obtains for himself or herself or another person any money or valuable thing or any financial advantage of any kind whatsoever shall be liable to imprisonment for 5 years).

Trong vụ R v. Araya [2005] NSWCCA. Tình tiết trong vụ đó có thể được tóm lược như sau:

"Tội danh thứ nhất" (count 1): Vào ngày 5.4.2001 bị cáo "tự xưng mình là Ông Hugo," (posing as Mr Hugo) rồi liên lạc bằng điện thoại với hãng máy bay Qantas để giữ 2 vé máy bay khứ hồi từ Melbourne đi Sydney cùng 2 đêm tại Quay West Appartment ở Sydney. Tổng cộng là $1,373.64. Bị cáo đã dùng Visa Card mang tên Miguel Hugo.
"Tội danh thứ hai" (count 2): Cùng ngày 5.4.2001 bị cáo dùng thẻ tín dụng đó để giữ 2 vé cho trẻ em và một vé cho người lớn đi từ Melbourne đến Sydney. Vào ngày 6.4.2001 bị cáo đến Quay West Appartment tại Sydney và cho nhân viên biết rằng bị cáo tên là Hugo. "Bị cáo đã đưa bằng lái xe của NSW với tên là Miguel Hugo. Bằng lái xe có hình của bị cáo" (The accused handed over a NSWs drivers licence in the name of Miguel Hugo. The drivers licence bore a photograph of the accused).

"Tội danh thứ ba" (count 3): Vào ngày 18.11.2001, bị cáo điện thoại cho hãng máy bay và tự xưng mình là Carlos Delacruz, rồi giữ chỗ cho 15 người đi từ Sydney đến Melbourne cùng phương tiện di chuyển và khách sạn. Bị cáo đọc số thẻ Mastercard với ngày đáo hạn là tháng 2.2002. Hãng máy bay đã gởi cho bị cáo một mẫu giấy "cho quyền xử dụng thẻ tín dụng" (a credit card authorisation) qua máy fax và yêu cầu bị cáo ký tên và gửi lại cho họ. Trên tấm giấy này họ cho bị cáo biết tổng phí tổn là $12,612.50. Nhưng thẻ tín dụng đã không chuẩn nhận số tiền này.

"Tội danh thứ tư" (count 4): Sau khi số tiền không được thẻ tín dụng chuẩn nhận, hãng máy bay đã gọi điện thoại cho bị cáo theo số điện thoại mà bị cáo đã cho họ. Bị cáo bèn cho số của một thẻ tín dụng khác đáo hạn vào tháng 4.2004. Hãng lại gởi qua máy fax cho bị cáo một mẫu giấy"cho quyền xử dụng thẻ tín dụng."  Bị cáo ký tên và gởi lại như đã được yêu cầu. Lần này thẻ đã chấp nhận phê chuẩn số tiền này. Hãng cũng tính thêm các chi phí phục dịch khác, tổng cộng là $13,951.10.

Thẻ tín dụng mà bị cáo dùng là thẻ của ông John Marx. ^ng ta không biết rằng số thẻ của ông đã bị xử dụng và đã không hề cho phép việc xử dụng đó" (He did not know that his card number was used and did not authorise such use).

"Tội danh thứ năm" (count 5): Vào ngày 29.5.2002, bị cáo đã dùng chính tên của mình và gọi điện thoại cho hãng Qantas để book vé từ Sydney đi Brisbane. Bị cáo đã dùng thẻ tín dụng của Cô Kelly Matthews đễ trả $502.72. Cô Matthews không hề cho phép bị cáo dùng thẻ của cô ta.



"Tội danh thứ sáu" (count 6): Vào ngày 17.6.2002, bị cáo tự xưng mình là Mr Jason Bina và book vé của hãng Qantas từ Sydney đi Darwin $1,107.84. Mr Bina không hề cho phép bị cáo xử dụng thẻ tín dụng của mình.

Bị cáo không chịu nhận tội và thương lượng cho đến lúc công tố viện thay đổi các tội danh. Cuối cùng bị cáo nhận 5 "tội thu đọat vật có giá trị bằng mánh khóe lừa đảo" (obtaining valuable thing by deception) và"tội toan thu đọat vật có giá trị bằng mánh khóe lừa đảo" (attempt to obtaining valuable thing by deception).
"Bản tường trình trước khi tuyên án" (a pre-sentence report) cho biết rằng bị cáo sinh năm 1974 được 28 tuổi vào lúc phạm tội và 30 tuổi vào lúc tuyên án. Bị cáo di dân từ ' Căn Đình" (Argentina). Cha mẹ ly thân vào lúc bị cáo được 9 tuổi. Bị cáo học xong lớp 9 thì bỏ học và đi làm "nghề lót gạch" (tiler) khoảng 7 năm. Vào năm 21 tuổi, bị cáo lập gia đình có 1 đứa con trai được 7 tuổi vào lúc tuyên án, và hôn nhân đã đổ vở sau 6 năm. Bị cáo có nhiều tiền án, đã phạm tội trộm vào năm 1994. Năm 1997, bị cáo bị tù 4 tháng về "tội giữ súng đã lên đạn tại nơi công cộng" (possession of a loaded firearm in a public place), và nhiều tội khác.

Vị chánh án tọa xử tại tòa án vùng đã tuyên án 3 năm 6 tháng tù và buộc bị cáo phải thụ hình tối thiểu là 2 năm. Bị cáo bèn kháng án với các lý do sau:
"Lý do 1" (Ground 1): "Vị thẩm phán tọa xử đã không cân nhắc thỏa đáng về việc nhận tội của bị cáo" (The trial judge gave insufficient weight to the pleas of guilty entered by the accused).

Luật sư của bị cáo cho rằng "việc nhận tội đã tiết kiệm tài nguyên cho Tiêu" Bang này một phiên xử có thể kéo dài hơn 6 tuần lễ" (the plea of guilty saved the resources of this State a trial that could have gone longer than six weeks). Về điểm này Tòa Kháng án cho rằng vị thẩm phán tọa xử đã khoan giảm 15% là quá đủ, vì bị cáo không chịu nhận tội ngay từ lúc đầu. Khoan giảm 15% vì tòa nhận thấy rằng "việc nhận tội đã có giá trị vị lợi đáng kể vì sự lượng định về thời gian xét xử và sự cần thiết phải gọi nhiều nhân chứng để chứng minh những hành vi lừa đảo khác biệt nhau" (the plea had considerable utilitarian value because of the estimated duration of the trial and the need to call many witnesses to prove the various fraudulently transactions).   

"Lý do thứ 2" (ground 2) là: Vị thẩm phán tọa xử đã suy tưởng sẵn thời gian thụ hình sẽ dành cho bị cáo mà không cần lưu ý đến bản án 3 năm 6 tháng tù là qúa nặng. Về điểm này Tòa Kháng án cho rằng vị thẩm phán có toàn quyền đưa ra bản án chung cho các tội danh và quy định việc thụ hình cùng lúc hoặc thụ hình riêng biệt.
"Lý do thứ 3" (ground 3) là: Tòa đã không chịu so sánh các bản án đã đưa ra trước đây với cùng tội danh. Về điểm này Tòa kháng án cho rằng chỉ có thể so sánh bản án giữa chánh phạm và tòng phạm trong một vụ xét xử chứ không thể so sánh bản án của 2 vụ xét xử khác nhau, dù bị buộc cùng một tội trạng, vì tình huống và các yếu tố phạm pháp hoàn tòan khác biệt nhau. Cuối cùng Tòa đã giữ y án.    

Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn ông có thể thấy được rằng việc xử dụng thẻ tín dụng của một người khác mà không được sự cho phép của họ là một tội phạm hình sự, và hình phạt tối đa dành cho tội trạng này là 5 năm tù ở. Tuy nhiên, thời gian thụ hình dài hay ngắn còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác.

Trong trường hợp ông nêu trong thư, cháu chỉ được tha bổng chỉ khi người chủ thẻ tín dụng cho phép, hoặc đồng ý cho cháu xử dụng thẻ tín dụng của họ. Nếu cháu chưa từng phạm pháp trước đây thì tòa sẽ có thể chỉ phạt tiền, buộc giữ gìn tánh hạnh và buộc cháu phải trả lại toàn bộ số tiền mà cháu đã lầm lở xử dụng trong thẻ.

Nếu ông còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp thêm.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.