<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />
Anne và Mark trong một buổi hẹn hò ở <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />
Việt
Việt
(Phạm Duy)
1. Văn nghệ sinh viên.
Mỗi năm, khi tháng Tư về sinh viên Việt
Tôi yêu thích những chương trình văn nghệ sinh viên, tại Berkeley nói riêng và những đại học khác ở miền Bắc California nói chung, vì nội dung chứa đựng nhiều nét sáng tạo, ít bài bản theo khuôn mẫu mỗi ca sĩ hát một hai bài, vài màn song ca, hợp ca xen với một hai khúc hài như những đại nhạc hội thương mại.
Văn nghệ sinh viên
Câu chuyện của sinh viên
Anne, Leslie và Tuấn là ba nhân vật chính của trường kịch trong chương trình văn nghệ chủ đề “Việt Nam Tên Gọi” cho năm nay.
Anne đến từ miền Nam California, cô nữ sinh lúc nào cũng tưởng mình “đã bỏ lại nguồn gốc Việt Nam ở Los Angeles”, nơi ba mẹ và cô em gái đang sinh sống để lên Berkeley hòa nhập. Người yêu của Anne là Mark, một sinh viên da trắng, nhưng cuộc tình khác biệt màu da đó đã không được ba cô chấp nhận. Còn đi phỏng vấn xin việc, vì công ty nơi Anne muốn vào đang phát triển về vùng Đông Nam Á, khi được hỏi ít nhiều kiến thức về Việt
Leslie mồ côi cha mẹ từ ngày còn rất bé, không biết về cội nguồn. Cô thích lang thang sân trường với máy hình trong tay, ghi lại nếp sống, sinh hoạt ở Sproul Plaza, điểm hội tụ của hoạt động sinh viên, chiếc nôi phát biểu của mọi tư tưởng. Thi thoảng cô tìm đến thăm một cụ bà người Việt, sống đơn côi vì chồng và con trai đã chết trong chiến tranh, và được bà an ủi. Qua những câu chuyện bà cụ kể lại, Leslie có hiểu biết thêm về nơi đã sinh ra.
Còn Tuấn là sinh viên du học đến từ Việt
Xoáy xoay trong những suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn của ba bạn sinh viên là những hình ảnh, nét đẹp Việt Nam thể hiện qua lời ca, tiếng nhạc, qua những chiếc nón lá, những áo bà ba nơi ruộng đồng, qua nét duyên dáng của khăn đống áo dài trong ngày cưới cổ truyền, qua những tà áo trắng học trò, những hẹn hò thẹn thùng thuở học sinh, qua tiếng đàn tranh, đàn bầu, tiếng trống; bên cạnh những thời trang áo dài và âm điệu sôi động của đời sống văn hoá Hoa Kỳ.
Qua những hồi tưởng, tìm kiếm, bàn thảo, tranh luận quanh không gian nhà trường, qua sinh hoạt với các bạn trong hội sinh viên Việt
Đèn thính đường bật sáng. Toàn ban văn nghệ ra chào tạm biệt, trên môi nở những nụ cười tươi, pha chút mệt mỏi sau mấy tháng tập dượt. Khán giả nồng nhiệt vỗ tay khen một chương trình văn nghệ có nội dung đặc sắc và tuy mang tính sinh viên nhưng không vấp phải những lỗi lầm kỹ thuật.
Những tràng pháo tay tán thưởng đó dành cho tất cả sinh viên đã góp công sức để chương trình thành công. Từ tác giả vở kịch là Jennifer Nguyễn, sinh viên năm thứ ba khoa y tế công cộng; Huân Đồng, phụ trách dàn dựng sân khấu, sinh viên năm thứ ba khoa sinh vật và có học thêm về sân khấu, kịch nghệ; cho đến những vai chính xuất sắc là Uyên Nguyễn (Anne), Kim-Mai Nguyễn (Leslie), Huy Vũ (Tuấn) và mấy chục sinh viên khác trong những màn vũ, những bài ca, trình diễn thời trang, những gã lang thang ở Sproul, những bạn đã vẽ phông hay thu dọn sân khấu.
“Việt Nam Tên Gọi” đã theo khán giả ra về với những suy tưởng còn đọng lại là những điều đã được các bạn sinh viên soi rọi, phản ánh lên.
2. Chút lịch sử.
Mùa thu năm 1977 tôi được nhận vào Đại Học Berkeley. Năm đó tôi chỉ biết có chừng năm bẩy sinh viên gốc Việt khác cũng vào trường. Một năm sau con số lên khoảng 50. Sinh viên Việt
Hội Sinh Viên Việt Nam tại Đại Học Berkeley được chính thức thành lập vào ngày 20.01.1979 sau buổi khoáng đại tại phòng họp của ký túc xá Spens Black Hall, Unit 3, với 60 sinh viên, sau khi biểu quyết thông qua nội qui và bầu ra ban chấp hành đầu tiên với Dư Minh Trọng làm tổng thư ký; và các trưởng ban gồm: Lê Đức, học tập; Nguyễn Trọng Vũ, sinh hoạt; Đặng Hoài Điệp, liên lạc; Nguyễn Kim Phượng, tài chánh; và tôi là trưởng ban văn hoá.
Tờ báo sinh viên “Nối Vòng Tay” ra số đầu tiên vào mùa thu 1979. Chương trình văn nghệ đầu tiên là “Đêm Việt Nam” được tổ chức vào tháng 4.1980 tại nhà hòa nhạc Herzt Music Hall của khoa âm nhạc với tiết mục chính là kịch thơ “Hận Nam Quan”.
Từ đó đến nay, đã 27 lần, khi tháng Tư về là lúc sinh viên
Ngoài văn nghệ, học hành, sinh hoạt nội bộ, các bạn còn tham gia sinh hoạt của cộng đồng người Việt miền Bắc California, từ giúp người vượt biển, trẻ em mồ côi, cứu trợ nạn nhân lũ lụt ở quê nhà, đến những chương trình kèm trẻ, tham dự Diễn Hành Xuân. Nhiều nữ sinh viên
Đầu năm 1979 có 60 sinh viên và một ban chấp hành 6 người, ngày nay hiện có hơn một nghìn sinh viên gốc Việt và một ban chấp hành 17 người - Vân Nguyễn hiện là chủ tịch - với nhiều sinh hoạt, thảo luận và một chương trình văn nghệ đặc sắc hằng năm là một dấu chỉ chứng tỏ những người trẻ không quên nguồn gốc của mình.
3. Một vài suy nghĩ.
Văn nghệ sinh viên có lẽ là một truyền thống đặc biệt của sinh viên Việt. Trong những năm hoạt động sinh viên, cũng như sau này tuy rời ghế nhà trường và vẫn sống gần khuôn viên đại học, ít khi tôi thấy sinh viên các sắc tộc khác làm văn nghệ.
Đối với những sắc dân như Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản, Triều Tiên thì việc phô diễn văn hoá gốc đã có những đoàn hát, những tố chức chuyên nghiệp ngay tại Hoa Kỳ hay phát xuất từ những quốc gia đó đến trình diễn qua những chương trình trao đổi văn hoá giữa hai nước, nên việc cung cấp những món ăn tinh thần cho sinh viên và cộng đồng bạn không phải là trách nhiệm của sinh viên.
Riêng với sinh viên gốc Việt, vì hoàn cảnh lịch sử và vì chính sách văn hóa thiếu tự do ở quê nhà nên những chương trình văn nghệ của sinh viên gốc Việt đã đóng vai trò đại sứ văn hoá. Nội qui sinh hoạt của các hội sinh viên, học sinh gốc Việt ở những trường trung đại học thường có mục đích - trong nhiều mục đích - là: “bảo tồn và phát huy văn hoá Việt
Khi nào Việt
(talawas.org 1.5.06)