Tuy nhiên, theo đánh giá của Vụ Xuất nhập khẩu thuộc Bộ Thương mại CSVN, mặc dù kim ngạch xuất cảng của Việt Nam sang Mỹ liên tục tăng nhưng phần lớn là thông qua kênh xuất cảng gián tiếp, tức là phía đối tác nước ngoài đặt hàng gia công tại Việt Nam. Do đó, không những giá trị thực thu không cao mà hàng hóa Việt Nam còn phải chịu cảnh “mượn danh” nước ngoài để vào được thị trường Mỹ. Báo này nêu ra một số trường hợp, trích như sau.
Đơn cử, đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn hầu như chưa thể xuất cảng trực tiếp thủy sản sang Mỹ mà phải bán hàng thông qua các hãng có tên tuổi tại Mỹ. Vì vậy, như mặt hàng tôm dù vẫn được ghi xuất xứ trên bao bì là sản phẩm sản xuất tại Việt Nam nhưng nhãn hiệu lại không phải là của doanh nghiệp Việt Nam mà là Empress, Contesa... là những hãng đã có sẵn uy tín với người tiêu dùng và có mạng lưới phân phối rộng khắp nước Mỹ.
Cùng chung số phận với thủy sản là da giày. Theo đánh giá của ông Nguyễn Khắc Thành, Tổng giám đốc Tổng công ty Da giày Việt Nam thì đến nay, vẫn chưa có doanh nghiệp quốc doanh nào xuất hàng trực tiếp được vào thị trường này. Ngoại trừ một số doanh nghiệp tư nhân đã xuất cảng được vài loại mặt hành như dép xốp, dép đi trong nhà... có giá trị thấp, còn lại, hơn 100 triệu đô kim ngạch thu được là từ việc xuất khẩu hàng gia công của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho các hãng nổi tiếng của Mỹ như Nike, Reebok...
Đối với ngành hàng dệt may, ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết, đến thời điểm này, ngay cả 2 “con chim” đi tiên phong trong số các doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất cảng sang Mỹ là Thành Công và Việt Thắng cũng chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho mình.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu Tư, một quan chức cấp cao của Bộ Thương mại nói: “Tất nhiên, khi các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam còn yếu kém về mọi mặt thì sự trợ giúp của “ngoại lực” dưới hình thức gia công đặt hàng là điều cần thiết, nhưng nếu các doanh nghiệp trong nước cứ tiếp tục lệ thuộc các hãng nước ngoài như hiện nay mà không tập trung xây dựng thương hiệu cho riêng mình thì họ cũng không thể tận dụng được những cơ hội mà Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ đem lại sau khi đã được thông qua”. Cũng theo quan chức này, kinh nghiệm từ các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc cho thấy, nhờ tập trung xây dựng được thương hiệu cho riêng mình nên tốc độ tăng trưởng xuất cảng hàng hóa vào thị trường Mỹ của các nước này luôn cao hơn Việt Nam. Chỉ tính trong năm 2000, tổng kim ngạch xuất cảng của Trung Quốc vào Mỹ là 14.3 tỷ đô, Thái Lan đạt 12.4 tỷ đô, trong khi Việt Nam chỉ đạt 827 triệu đô.