Hôm nay,  

Hai Ngoại Ủng Hộ “tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt-nam 2006 Của 118 Nhà Đấu Tranh Dân Chủ Quốc Nội Việt-nam”

12/04/200600:00:00(Xem: 5255)

Phần I: Tóm tắt

Vào ngày 8 tháng 4, năm 2006, nhiều nhà dân chủ quốc nội Việt-Nam đã công bố bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt-Nam 2006 muời ngày trước khi Đảng CSVN nhóm họp Đại Hội X. Vì bị bao vây và cô lập, những nhà đấu tranh ở quốc nội gặp rất nhiều khó khăn trong việc liên lạc và phối hợp hoạt động. Tuy nhiên, trong danh sách sơ khởi với 118 tên, chúng ta nhận thấy có những người đấu tranh lão thành được nhiều người Việt trong và ngoài nước biết đến như các ông Hoàng Minh chính, Phạm Quế Dương, Nguyễn Chính Kết, Trần Khuê, Hoàng Tiến, Trần Dũng Tiến; những nhân vật trẻ tuồi can trường như Nguyễn Văn Đài, Vũ Thúy Hà, Đỗ Nam Hải, Nguyền Khắc Toàn, Trần Mạnh Hảo; những nhà lãnh đạo tôn giáo chân chính như LM Nguyễn Hữu Giải, LM Phan Văn Lợi, LM Nguyễn Văn Lý, MS Nguyễn Hồng Quang, MS Phạm Ngọc Thạch, LM Chân Tín, Cụ Lê Quang Liêm.

Cuộc đấu tranh này đang lan rộng trong quần chúng. Do đó, danh sách có những người ít biết đến hơn và ngày càng dài ra, nhưng vẫn chỉ là phần nổi của phong trào dân chúng đòi tự do dân chủ tại quốc nội. Đây là một dấu hiệu rất đáng mừng cho một tương lai sáng lạn khi mà đất nước thoát khỏi nạn độc tài tham nhũng và bất công hiện nay.

Bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt-Nam 2006 đưa ra một số điểm chính sau đây:

* Trong cuộc Cách mạng tháng 8-1945, sự lựa chọn của toàn Dân tộc ta là Độc lập Dân tộc, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng mục tiêu của cuộc cách mạng ấy đã bị đảng Cộng sản Việt Nam đánh tráo. Và dĩ nhiên, Quyền Dân tộc tự quyết cũng hoàn toàn bị thủ tiêu.

* Tất cả những quyền thiêng liêng của dân tộc (quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc) đều bị chà đạp thô bạo ngay sau khi chính quyền cộng sản được dựng lên.

* Chính hệ thống quyền lực không chấp nhận cạnh tranh và không chấp nhận bị thay thế này đã nhanh chóng làm thoái hoá và biến chất toàn bộ hệ thống ấy. Bộ máy lãnh đạo, quản lý và điều hành do vậy ngày càng hư hỏng, rệu rã từ trung ương xuống cơ sở địa phương. Vấn đề của mọi vấn đề, nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính vì đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Đất nước.

* Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh.

* Phương pháp của cuộc đấu tranh này là hòa bình, bất bạo động. Và chính Dân tộc Việt Nam chủ động thực hiện cuộc đấu tranh này.

* Ý nghĩa của cuộc đấu tranh này là làm cho chính nghĩa thắng phi nghĩa, tiến bộ thắng lạc hậu.

Xin xem dưới đây nguyên văn bản “Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt-Nam 2006 của 118 Nhà Đấu Tranh Dân Chủ Quốc Nội Việt-Nam.”

Trong vòng 2 ngày cuối tuần, hơn một trăm người Việt ở hải ngoại ở khắp nơi trên thế giới đã tiên phong ủng hộ Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ của 118 nhà đấu tranh dân chủ quốc nội Việt-Nam. Trong số những người hải ngoại chúng ta nhận thấy có các nhà tranh đấu được quốc tế biết đến như các ông Nguyễn Minh Cần, Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện; những nhà trí thức được kính trọng như LS Lâm Lễ Trinh, LS Nguyễn Hữu Thống, TS Võ Nhân Trí, GS Tôn Thất Thiện, BS Nguyễn Tường Bách, TS Âu Dương Thệ, GS Vũ Thiện Hân, Thẩm Phán Phan Quang Tuệ, GS Đỗ Quý Toàn, BS Nguyễn Tiến Cảnh, KS Đỗ Như Điện, KS Lê Minh Nguyên, GS Nguyễn Thanh Trang; những nhân vật trẻ đầy nhiệt huyết như LS Nguyễn Quốc Lân, Phân Tách Gia Tài Chánh Hoàng Tư Duy, KS Đoàn Việt Trung, Phân Tách Gia Tài Chánh Lữ Anh Thư; KS Trần Quốc Dũng; Những Nhà Văn Nhà Báo như Trương Anh Thụy, Chu Bá Yến, Đinh Quang Anh Thái, Trần Việt Hải, những nhà lãnh đạo tôn giáo ở hải ngoại như HT Thích Nguyên An, TT Thích Nguyên Trí, LM Nguyễn Hữu Lễ, LM Trần Xuân Tâm, MS Đặng Ngọc Báu. Còn rất nhiều người tâm huyết không sao kể hết.

Chúng tôi tha thiết kêu gọi người Việt trong và ngoài nước, trong hay ngoài đảng CSVN, hãy ủng hộ bản “Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt-Nam 2006 của 118 Nhà Đấu Tranh Dân Chủ Quốc Nội Việt-Nam” bằng cách ký tên trực tiếp vào kiến nghị này. Chúng tôi hết lòng đa tạ. Một kiến nghị tương tự bằng tiếng Anh sẽ được soạn thảo để kêu gọi các người bạn quốc tế của Việt-Nam ủng hộ bản Tuyên Ngôn 2006 này.

Phần II: Tuyên ngôn

Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006

Của 118 Nhà Đấu Tranh Dân Chủ Quốc Nội Việt Nam

Việt Nam, 8 - 4 – 2006

Kính gửi Đồng bào Việt Nam ở trong và ngoài Nước,

Chúng tôi, ký tên dưới đây, đại diện cho hàng trăm nhà đấu tranh Dân chủ ở quốc nội và tất cả mọi người Dân nào đang khao khát một nền Dân chủ chân chính cho Quê hương Việt Nam hôm nay, đồng thanh lên tiếng :

I. Thực trạng của Việt Nam

1- Trong cuộc Cách mạng tháng 8-1945, sự lựa chọn của toàn Dân tộc ta là Độc lập Dân tộc, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2-9-1945 chẳng nhắc đến một từ nào về chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản cả. Hai nguyên nhân chính làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng ấy là Khát vọng Độc lập Dân tộc và Khoảng trống quyền lực lúc bấy giờ ở Việt Nam (quân Nhật đã đầu hàng phe Đồng minh ngày 15-8-1945 và thực dân Pháp đã bị quân Nhật đảo chính cướp quyền từ ngày 9-3-1945).

Rõ ràng mục tiêu của cuộc cách mạng ấy đã bị đảng Cộng sản Việt Nam đánh tráo. Và dĩ nhiên, Quyền Dân tộc tự quyết cũng hoàn toàn bị thủ tiêu. Đã có ít nhất 2 cơ hội lịch sử rất thuận lợi là năm 1954 ở miền Bắc và năm 1975 trên cả nước, để Dân tộc khẳng định Quyền tự quyết của mình. Nhưng tất cả đều đã bị đảng Cộng sản Việt Nam tráo trở không thực hiện. Vì một khi nền chuyên chính vô sản đã được thiết lập, thì theo Lênin, chức năng đầu tiên của nó chính là: bạo lực và khủng bố trấn áp!

2- Tiếp đến, ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trịnh trọng tuyên bố với Dân tộc và với Thế giới rằng : "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập nam 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là : mọi Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp nam 1791 cũng nói : "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi ; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được…”. (trích Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945).

Thế nhưng, tất cả những quyền thiêng liêng ấy của dân tộc đều bị chà đạp thô bạo ngay sau đó, khi mà chính quyền cộng sản được dựng lên.

3- Đến tháng 2-1951 Tuyên ngôn của đảng Lao động Việt Nam (nay là đảng Cộng sản Việt Nam) kỳ đại hội lần thứ 2, đã viết: “Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác–Lênin”. Và trong Điều Lệ, phần Mục Đích và Tôn Chỉ còn khẳng định rõ ràng hơn : “Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Angghen - Lênin - Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng…”.

Kể từ đó, nhất là ở miền Bắc sau năm 1954, rồi cả nước sau ngày 30-4-1975 thì bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đã luôn đè ám lên đầu, lên cổ toàn Dân Việt Nam. Chính cái bóng ma ấy chứ không phải là cái gì khác đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của Nhân dân Việt Nam. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên cả 2 mặt tinh thần và thể chất của toàn Dân tộc Việt Nam.

II. Qui luật phổ biến toàn cầu

1- Lịch sử đã minh định rằng mọi quyền tự do, dân chủ ở bất cứ một chế độ độc đảng toàn trị nào, dù cộng sản hay không cộng sản, cũng đều bị chà đạp không thương tiếc, chỉ khác nhau ở mức độ mà thôi. Bất hạnh thay là cho đến nay, Dân tộc Việt Nam vẫn thuộc về một trong số ít các Quốc gia trên thế giới còn bị cai trị bởi chế độ độc đảng toàn trị cộng sản. Điều này thể hiện cụ thể tại Điều 4 của Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện hành, rằng: “Đảng cộng sản Việt Nam... theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.” Chính vì điều này mà các quyền tự do, dân chủ của Nhân dân đã hoàn toàn bị triệt tiêu, may ra chỉ còn vài mẩu vụn mà thôi!

2- Chính hệ thống quyền lực không hề chấp nhận cạnh tranh và không hề chấp nhận bị thay thế này đã thúc đẩy mạnh mẽ đà thoái hoá, biến chất của toàn bộ hệ thống ấy. Vì chẳng có qui luật và nguyên tắc cạnh tranh công bằng nào trên chính trường, nên sau những kỳ bầu cử thì toàn Dân không thể chọn được những con người và những lực lượng chính trị xứng đáng nhất. Bộ máy lãnh đạo, quản lý và điều hành do vậy ngày càng hư hỏng, rệu rã từ trung ương xuống cơ sở địa phương. Hậu quả là Việt Nam hôm nay trở thành Quốc gia bị tụt hậu quá xa so với các Nước trong khu vực và thế giới. Quốc nhục này và các quốc nạn khác khó bề tẩy xóa. Vấn đề của mọi vấn đề, nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính vì đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Đất nước ! Thực tiễn đã xác minh rằng bất kỳ Nước nào đã bị rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa cộng sản thì đều điêu tàn thê thảm cả. Liên Xô, cái nôi cộng sản, cùng với các Nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu khác, đã dũng cảm vượt qua chính mình để quay lại tìm đường đi đúng cho Dân tộc họ.

3- Chúng ta đều hiểu rằng: không ai có thể sửa được lịch sử, nhưng có thể bẻ chiều lịch sử. Và điều quan trọng hơn là qua những bài học của lịch sử, định hướng tốt cho tương lai. Con đường hôm qua của Dân tộc ta đã bị những người Cộng sản Việt Nam chọn một cách vội vàng, thiếu chín chắn và áp đặt cho cả Dân tộc một cách khiên cưỡng. Con đường ấy thực tế đã chứng minh là hoàn toàn sai lạc. Vì vậy Dân tộc ta hôm nay phải chọn lại con đường cho mình. Và chắc chắn cả Dân tộc cùng chọn sẽ tốt hơn một người hay một nhóm người nào đó. Đảng cộng sản Việt Nam cũng chỉ là một bộ phận của Dân tộc, nên không thể mạo danh Dân tộc để chọn thay ! Trước Dân tộc và lịch sử suốt hơn nửa thế kỷ qua (1954–2006), Đảng cầm quyền ấy đã tiếm danh chứ không chính danh chút nào! Bởi lẽ các cuộc bầu cử thực sự tự do hoàn toàn vắng bóng ở Việt Nam.

Từ thực trạng và qui luật trên đây, với ý thức trách nhiệm của Công dân trước vận mệnh Đất nước, chúng tôi xin được phép giãi bày cùng toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài Nước:

III. Mục tiêu, phương pháp và ý nghĩa cuộc đấu tranh

1- Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và đầy thành tựu.

Mục tiêu cụ thể là thiết lập lại các quyền cơ bản của toàn Dân sau đây :

- Quyền Tự do Thông tin Ngôn luận theo Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc được biểu quyết ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24-9-1982, điều 19,2 : “Mọi người có quyền tự do ngôn luận, quyền nầy bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức truyền miệng, bằng bản viết, bản in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác tuỳ theo sự lựa chọn của mình”. Nghĩa là các đảng phái, tổ chức, cá nhân có quyền thông tin ngôn luận qua báo chí, phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông đại chúng khác mà không cần đợi phép của nhà cầm quyền.

- Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, bầu cử và ứng cử theo Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, điều 21 : “Mọi Công dân… đều có quyền và cơ hội để (a) tham gia vào việc điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện được họ tự do lựa chọn”; (b) bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ ý nguyện của mình”. Nghĩa là các đảng phái thuộc mọi khuynh hướng cùng nhau cạnh tranh lành mạnh trong một nền dân chủ đa nguyên, đa đảng chân chính.

- Quyền Tự do hoạt động Công đoàn độc lập và Quyền Đình công chính đáng theo Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, được Liên Hiệp Quốc biểu quyết ngày 16-12-1966, điều 7 và 8 : “Các Quốc gia thành viên của Công ước công nhận quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi…, quyền của mọi người được thành lập và gia nhập Công đoàn mà mình lựa chọn, chỉ phải tuân theo quy chế của Tổ chức đó để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình… (với) quyền đình công…”. Các công đoàn này phải là những tổ chức duy nhất hoạt động độc lập, không có những loại Công đoàn tay sai của nhà cầm quyền.

- Quyền Tự do Tôn giáo theo Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, điều 18 : “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm tự do có hoặc theo một Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ Tín ngưỡng hoặc Tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền đạo”. Các Tôn giáo này phải hoạt động độc lập, chứ không thể bị biến thành công cụ cho nhà cầm quyền.

2- Phương pháp của cuộc đấu tranh này là hòa bình, bất bạo động. Và chính Dân tộc Việt Nam chủ động thực hiện cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, chúng ta rất cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình và ngày càng hiệu quả của tất cả những bạn bè trên thế giới. Thông qua những phương tiện thông tin hiện đại và qua sự giao lưu quốc tế ngày càng rộng mở, chúng ta sẽ tìm mọi cách giúp Đồng bào kiện toàn nhận thức. Và một khi Nhân dân đã có nhận thức đúng và rõ thì nhất định sẽ biết hành động thích hợp và hiệu quả.

3- Ý nghĩa của cuộc đấu tranh này là làm cho chính nghĩa thắng phi nghĩa, tiến bộ thắng lạc hậu, các lực lượng dân tộc đang vận dụng đúng quy luật của cuộc sống và xu thế của thời đại thắng những tà lực đang tìm cách đi ngược lại những xu thế và quy luật ấy. Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn đồng hành cùng Dân tộc hay không là tùy ở mức độ đảng ấy có khách quan, công bằng, sáng suốt và khiêm tốn chấp nhận các nguyên tắc bình đẳng của cuộc cạnh tranh lành mạnh hay không, chỉ có thể chế chính trị độc đảng ấy là dứt khoát phải bị chốn táng vĩnh viễn vào quá khứ. Từ đó, Dân tộc sẽ tìm được những con người tốt nhất, những lực lượng chính trị giỏi nhất sau mỗi kỳ bầu cử để lãnh đạo Đất nước. Nguyên tắc “lẽ phải toàn thắng” sẽ được thiết lập và cuộc sống cá nhân sẽ trở nên tốt hơn, xã hội sẽ trở nên nhân bản hơn và Đồng bào sẽ sống với nhau thân thiện hơn.

Chúng tôi mong ước Tuyên ngôn này thúc đẩy được sự đóng góp tích cực của Đồng bào trong ngoài Nước và sự ủng hộ của Bạn bè Quốc tế. Chúng tôi chân thành cảm ơn và kêu gọi các Cơ quan Liên Hiệp Quốc, các Quốc hội, Chính phủ, Tổ chức Quốc tế và Bạn bè trên toàn thế giới tiếp tục ủng hộ cách nhiệt tình và hiệu quả cho cuộc đấu tranh đầy chính nghĩa này, góp phần đưa Tổ quốc Việt Nam sớm sánh vai cùng các Nước văn minh, đạo đức, thịnh vượng, tự do trong cộng đồng Nhân loại hôm nay.

Đồng tuyên bố tại Việt Nam ngày 08 tháng 4 năm 2006

1. Bs Nguyễn Xuân An, Huế

2. Gv Đặng Hoài Anh, Huế

3. Gv Đặng Văn Anh, Huế

4. Bs. Lê Hoài Anh, Nha Trang

5. Gs Nguyễn Kim Anh, Huế

6. Gs Nguyễn Ngọc Anh, Đà Nẵng

7. Nv Trịnh Cảnh, Vũng Tàu

8. Lm F.X. Lê Văn Cao, Huế

9. Gv Lê Cẩn, Huế

10. Lm Giuse Hoàng Cẩn, Huế

11. Gv Trần Thị Minh Cầm, Huế

12. Lm Giuse Nguyễn Văn Chánh, Huế

13.Gv Nguyễn Thị Linh Chi, Cần Thơ

14. Gs Hoàng Minh Chính, Hà Nội

15.Gv Nguyễn Viết Cử, Quảng Ngãi

16. Ths Đặng Quốc Cường, Huế

17. Nv Nguyễn Đắc Cường, Phan Thiết

18. Dn Hồ Ngọc Diệp, Đà Nẵng

19. Gv Trần Doãn, Quảng Ngãi

20. Lê Thị Phú Dung, Sài Gòn

21. Gv Hồ Anh Dũng, Huế

22. Gs Trương Quang Dũng, Huế

23. Bs Hà Xuân Dương, Huế

24. Cựu Đại tá Phạm Quế Dương, Hà Nội

25. Ls Nguyễn Văn Đài, Hà Nội

26. Kt Trần Văn Đón, Phan Thiết

27. Bs Hồ Đông, Vĩnh Long

28. Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Huế

29. Dn Trần Văn Ha, Đà Nẵng

30. Gv Lê Thị Bích Hà, Cần Thơ

31. Bs Lê Thị Ngân Hà, Huế

32. Gv Lê Nguyễn Xuân Hà, Huế

33. Vũ Thuý Hà, Hà Nội

34. Ks Đỗ Nam Hải, Sài Gòn

35. Gv Trần Thạch Hải, Hải Phòng

36. Kt Trần Việt Hải, Vũng Tàu

37. Ks Đoàn Thị Diệu Hạnh, Vũng Tàu

38. Dn Nguyễn Thị Hạnh, Đà Nẵng

39. Gv Phan Thị Minh Hạnh, Huế

40. Gs Đặng Minh Hảo, Huế

41. Nv Trần Hảo, Vũng Tàu

42. Nv Trần Mạnh Hảo, Sài Gòn

43. Gv Lê Lệ Hằng, Huế

44. Lm Giuse Nguyễn Đức Hiểu, Bắc Ninh

45. Yt Chế Minh Hoàng, Nha Trang

46. Gv Văn Đình Hoàng, Huế

47. Gv Lê Thu Minh Hùng, Sài Gòn

48. Gs Nguyễn Minh Hùng, Huế

49. Lm Gk Nguyễn Văn Hùng, Huế

50. Gv Phan Ngọc Huy, Huế

51. Gv Lê Thị Thanh Huyền, Huế

52. Gv Đỗ Thị Minh Hương, Huế

53. Ths Mai Thu Hương, Hải Phòng

54. Yt Trần Thu Hương, Đà Nẵng

55. PTs Nguyễn Ngọc Kế, Huế

56. Gs Nguyễn Chính Kết, Sài Gòn

57. Ths Nguyễn Quốc Khánh, Huế

58. Gv Nguyễn Đăng Khoa, Huế

59. Gs Trần Khuê, Sài Gòn

60. Cựu Thiếu tá Vũ Kính, Hà Nội

61. Nv Bùi Lăng, Phan Thiết

62. Gv Tôn Thất Hoàng Lân, Sài Gòn

63. Hội trưởng PGHHTT Lê Quang Liêm, Sài Gòn

64. Bs Vũ Thị Hoa Linh, Sài Gòn

65. Lm G.B. Nguyễn Cao Lộc, Huế

66. Lm Phêrô Phan Văn Lợi, Huế

67. Gv Ma Văn Lựu, Hải Phòng

68. Gv Nguyễn Văn Lý, Hải Phòng

69. Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, Huế

70. Gv Cái Thị Mai, Hải Phòng

71. Gv Cao Thị Xuân Mai, Huế

72. Gv Nguyễn Văn Mai, Sài Gòn

73. Nv Hà Văn Mầu, Cần Thơ

74. Gv Phan Văn Mậu, Huế

75. Nv Lê Thị Thu Minh, Cần Thơ

76. Gv Ma Văn Minh, Huế

77. Gv Nguyễn Anh Minh, Sài Gòn

78. Bs Huyền Tôn Nữ Phương Nhiên, Đà Nẵng

79. Bùi Kim Ngân, Hà Nội

80. Ths Đặng Hoài Ngân, Huế

81. Lm G.B. Lê Văn Nghiêm, Huế

82. Gv Lê Hồng Phúc, Hải Phòng

83. Lm Đa Minh Phan Phước, Huế

84. Ks Võ Lâm Phước, Sài Gòn

85. Lm Giuse Cái Hồng Phượng, Huế

86. Ms Nguyễn Hồng Quang, Sài Gòn

87. Ks Tạ Minh Quân, Cần Thơ

88. Lm Augustinô Hồ Văn Quý, Huế

89. Lm Giuse Trần Văn Quý, Huế

90. Bs Võ Văn Quyền, Vĩnh Long

91. Bs. Trần Thị Sen, Nha Trang

92. Cư sĩ PGHHTT Lê Văn Sóc, Vĩnh Long

93. Ks Hoàng Sơn, Hải Phòng

94. Lm Phaolô Ngô Thanh Sơn, Huế

95. Gs Nguyễn Anh Tài, Đà Nẵng

96. Ks Đỗ Hồng Tâm, Hải Phòng

97. Bs. Tạ Minh Tâm, Cần Thơ

98. Gs Nguyễn Thành Tâm, Huế

99. Ms Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn

100. Gv Nguyễn Bình Thành, Huế

101. Gv Văn Bá Thành, Huế

102. Cư sĩ PGHHTT Nguyễn Văn Thơ, Đồng Tháp

103. Ths Trần Mạnh Thu, Hải Phòng

104. Gs Ts Trần Hồng Thư, Sài Gòn

105. Nhà văn Hoàng Tiến, Hà Nội

106. Cựu Sĩ quan Trần Dũng Tiến, Hà Nội

107. Lm Têphanô Chân Tín, Sài Gòn

108. Gv Nguyễn Khắc Toàn, Hà Nội

109. Nv Tôn Nữ Minh Trang, Phan Thiết

100. Gv Chế Thị Hồng Trinh, Huế

111. Bs Nguyễn Anh Tú, Đà Nẵng

112. Bs Đoàn Minh Tuấn, Sài Gòn

113. Gv Lê Trí Tuệ, Hải Phòng

114. Yt Trần Thị Hoài Vân, Nha Trang

115. Gv Ngô Thị Tường Vi, Quảng Ngãi

116. Gv Nguyễn Lê Xuân Vinh, Cần Thơ

117. Ths Hồ Ngọc Vĩnh, Đà Nẵng

118. Ks Lâm Đình Vĩnh, Sài Gòn

Phần III: Danh sách những người tiên phong ủng hộ bản “Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt-Nam 2006 của 118 Nhà Đấu Tranh Dân Chủ Quốc Nội Việt-Nam”

Chúng tôi ký tên dưới đây là những người Việt sống tại khắp nơi ở hải ngoại, với tư cách cá nhân, triệt để ủng hộ nội dung bản “Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006” trên đây của 118 Nhà Đấu Tranh Dân Chủ tại quốc nội:

001 Nguyễn Minh Cần, Nhà Báo, Moskva, Liên Bang Nga.

002 Nguyễn Chí Thiện, Nhà Thơ, California, Hoa-Kỳ.

003 Vũ Thư Hiên, Nhà Văn, Paris, Pháp

004. Bùi Tín, Nhà Báo, Paris, Pháp

005. Lê Minh Nguyên, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt-Nam, California, Hoa-Kỳ.

006 MS Đặng Ngọc Báu, California, Hoa-Kỳ.

007 LM Trần Xuân Tâm, Maryland, Hoa-Kỳ.

008 LM Nguyễn Hữu Lễ, Auckland,Tân Tây Lan.

009 HT Thích Nguyên An, Giáo Hội Phật Giào Việt-Nam Thống Nhất Hải Ngoại, Seatlle, Washington, Hoa-Kỳ.

010 TT Thích Nguyên Trí, Giáo Hội Phật Giào Việt-Nam Thống Nhất Hải Ngoại, Garden Grove, California, Hoa-Kỳ.

011 Huỳnh Văn Hiệp, Phật Giáo Hòa Hảo Hải Ngoại, Washington DC, Hoa-Kỳ.

012 Nguyễn Thành Long, Phật Giáo Hòa Hảo Hải Ngoại, Santa Ana, California, Hoa-Kỳ.

013 LS Lâm Lễ Trinh, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt-Nam, Hungtington Beach, California, Hoa-Kỳ.

014 LS Nguyễn Hữu Thống, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt-Nam, San Jose, California, Hoa-Kỳ.

015 TS Âu Dương Thệ, Dortmunt, Đức quốc.

016 KS Lâm Đăng Châu, Hannover, Đức quốc.

017 Trương Anh Thụy, Nhà Văn, Virginia, Hoa-Kỳ,

018 GS Nguyễn Thanh Trang, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt-Nam, California, Hoa-Kỳ.

019 KS Đoàn Việt Trung, Victoria, Úc.

020 TS Võ Nhân Trí, Paris, Pháp.

021 Lê Duy Cấn, Ottawa, Canada.

022 Nguyễn Hồng Liên, Ủy Ban Tranh Đấu Cho Nhân Quyền.Việt-Nam, New York, Hoa-Kỳ.

023 Phạm Trần, Nhà Báo, Virginia, Hoa-Kỳ.

024 GS Đỗ Quý Toàn, California, Hoa-Kỳ.

025 Phan Quang Tuệ, Thẩm Phán, California, Hoa-Kỳ.

026 Trần Nhật Kim, Virginia, Hoa-Kỳ.

027 Nguyễn Cao Quyền, Maryland, Hoa-Kỳ.

028 TS Nguyễn Văn Trần, Paris, Pháp.

029 TS Phan Văn Song, Paris, Pháp.

030 Hồ Minh Châu, Tu Sĩ Phật Giáo Hòa Hảo.

031 Trần Ngọc Sơn, Paris, Pháp.

032 GS Vũ Thiện Hân, Paris, Pháp.

033 Jackie Bong-Wright, Falls Church, Virginia, Hoa-Kỳ.

034 BS Trần Huê, Offenbach, Đức quốc.

035 Chu Vũ Ánh, Hamburg, Đức quốc.

036 GS Nguyễn Quốc Khải, Vietnam Review, Potomac, Maryland, Hoa-Kỳ.

037 Nguyên Dung, California, Hoa-Kỳ.

038 Đỗ Anh Tài, Phong Trào Giáo Dân Hải Ngoại, Nam California, Hoa-Kỳ.

039 Nguyễn Duy Hinh, Virginia, Hoa-Kỳ.

040 TS Hà Văn Hải, Boston, Hoa-Kỳ.

041 BS Nguyễn Tường Bách, Westminster, California, Hoa-Kỳ.

042 Trần Công Thiện, California, Hoa-Kỳ.

043 Nguyễn Tường Ánh, Virginia, Hoa-Kỳ.

044 Vũ Hối, Laurel, Maryland, Hoa-Kỳ.

045 Trần Bình Nam, California, Hoa-Kỳ.

046 TS Mai Thanh Truyết, California, Hoa-Kỳ.

047 Trần Ngọc Thành, Warsaw, Ba Lan.

048 Mạc Viêt Hồng, Warsaw, Ba Lan.

049 GS Đỗ Thị Thuấn, California, Hoa-Kỳ.

050 Phạm Hoàng, Tổ Chức Dân Chủ Việt-Nam và báo Cánh Én, Munchen, Đức Quốc.

051 Nguyễn Duy Tân, Ủy Ban Nhân Quyền, Đức Quốc.

052 LS Nguyễn Quốc Lân, Garden Grove, California, Hoa-Kỳ.

053 GS Jean Libby, California, Hoa-Kỳ.

054 Nguyễn Chí Thiệp, Houston, Texas, Hoa-Kỳ.

055 TS Ngô Văn Tuấn, Amsterdam, Hòa Lan.

056 LM Gioan Đinh Xuân Minh, Mainz, Đức quốc.

057 Lê Doãn Kim, Gaithersburg, Maryland, Hoa-Kỳ.

058 Ngọc Dung, Cộng Đồng Người Việt, Greater Vancouver, Canada.

059 Ngô Thị Hiền, Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Cho Việt-Nam, Bethesda, Maryland, Hoa-Kỳ.

060 Hoàng Tư Duy, Phân Tách Gia Tài Chánh, Washington, DC, Hoa-Kỳ.

061 LM Nguyễn Thanh, California, Hoa-Kỳ.

062 LM Trần Quý Thiện, California, Hoa-Kỳ.

063 Nguyễn Lê Nguyên, Paris, Pháp.

064 Phạm Nhân, Virginia, Hoa-Kỳ.

065 GS Tôn Thất Thiện, Ottawa, Canada.

066 Trần Dũng Minh Dân, Houston, Texas, Hoa-Kỳ.

067 Trương Trọng Trác, báo Ngày Nay, Houston, Texas, Hoa-Kỳ.

068 Nguyễn Quốc Cường, báo Ngày Nay, Houston, Texas, Hoa-Kỳ.

069 Lê Duy Nhân, báo Ngày Nay, Houston, Texas, Hoa-Kỳ.

070 Nông Duy Trường, báo Ngày Nay, Houston, Texas, Hoa-Kỳ.

071 Nhuệ Giang, báo Ngày Nay, Minnesota, Hoa-Kỳ.

072 Kinh Huy, báo Ngày Nay, Minnesota, Hoa-Kỳ.

073 Trịnh Ngọc Anh, Radio Hoa Mai, California, Hoa-Kỳ.

074 LM Đinh Xuân Long, North Carolina, Hoa-Kỳ.

075 LM Nguyễn Thanh Long, Silver Spring, Maryland, Hoa-Kỳ.

076 BS Nguyễn Tiến Cảnh, Florida, Hoa-Kỳ.

077 Phan Vỹ, Virginia, Hoa-Kỳ.

078 Chu Bá Yến, Florida Việt Báo, Hoa-Kỳ.

079 Nguyễn Ngọc Ánh, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Arizona, Hoa-Kỳ.

080 Lữ Anh Thư, Phân Tách Gia Tài Chánh, Virginia, Hoa-Kỳ.

081 Lê Ngọc Phương, Diễn Đàn Tiếng Nói Tự Do Dân Chủ Cho Việt-Nam, Adelaide, Úc.

082 TS Nguyễn Kỳ Phong, Virginia, Hoa-Kỳ.

083 Phong Thu, Silver Spring, Maryland, Hoa-Kỳ.

084 BS Trần Mộng Lâm, Montreal, Canada.

085 An Nguyễn, Garden Grove, California, Hoa-Kỳ.

086 Đoàn Hữu Định, Washington, DC, Hoa-Kỳ.

087 Trần Tử Thanh, Virginia, Hoa-Ký.

088 Quản Mỹ Lan, Provence, Pháp.

089 Phạm Ngọc Lâm, Provence, Pháp.

090 Nguyễn Huy Long, Virginia, Hoa-Kỳ.

091 Đào Hiếu Thảo, Virginia, Hoa-Kỳ.

092 KS Đỗ Như Điện, Phong Trào Giáo Dân Hải Ngoại, Fallbrooks, California, Hoa-Kỳ.

093 Tôn Thất Diên, California, Hoa-Kỳ.

094 Nguyễn Sĩ Chấp, Houston, Texas.

095 Đinh Quang Anh Thái, Little Saigon, California.

096 Phan Thanh Tâm, Saint Paul, Minnesota, Hoa-Kỳ.

097 Nguyễn Bá Tùng, California, Hoa-Kỳ.

098 KS Vũ Văn Thái, Giáo Hội Phật Giáo Việt-Nam Trên Thế Giới, Montreal, Canada.

099 Cấn Thị Bích Ngọc, Canada.

100 Trần Tuý Việt, San Francisco, California, Hoa-Kỳ.

101 Nguyễn Công Danh, California, Hoa-Kỳ.

102 GS Lưu Trung Khảo, Hội Giáo Chức Việt-Nam Hải Ngoại, New Port Beach, California, Hoa-Kỳ.

103 Chu Vũ Ánh, Paris, Pháp.

104 Trần Việt Hải,Nhà Văn, Los Angeles, California, Hoa-Kỳ.

105 KS Trần Quốc Dũng, Herdon, Virginia, Hoa-Kỳ.

106 Võ Nhẫn, Fairfax, Virginia, Hoa-Kỳ.

107 Hoàng Cơ Định, San Jose, California, Hoa-Kỳ.

108 Trần Thị Thức, Annadale, Virginia, Hoa-Kỳ.

109 Trần Đan Tâm, London - Vương Quốc Anh.

110 KS Giang Nguyễn, London - Vương Quốc Anh.

111 Mai Nguyễn, London - Vương Quốc Anh.

112 KS Nguyễn Mai Giang Vân, London - Vương Quốc Anh.

113 Mai Thị Vân, London - Vương Quốc Anh.

114 Ngọc Trần, London - Vương Quốc Anh.

115 Quân Trần, Oxford, Vương Quốc Anh.

116 KS Trần Nam, Washington DC, Hoa Kỳ.

117 BS Nguyễn T. Khương, Paris, Pháp Quốc.

118 TS Peter Tôn Thất, London - Vương Quốc Anh.

119 Trần Văn Đơn, Manchester, Vương Quốc Anh.

120 Đỗ Sung, Leicester, Vương Quốc Anh.

121 Cường Phạm, Birmingham, Vương Quốc Anh.

122 GS Nguyễn Phượng, Birmingham, Vương Quốc Anh.

123 Phạm Luy, Birmingham, Vương Quốc Anh.

124 Nguyễn Văn Phương, Birmingham, Vương Quốc Anh.

125 Lê Thanh Lập, Birmingham, Vương Quốc Anh.

126 Nguyễn Văn Tân, Birmingham, Vương Quốc Anh.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.