NEW YORK (AP) – Charles Simic đang đọc một bài thơ cho một nhóm học trò trung học tại một lễ hội thi ca tại City College. Sau vài phút, nhiều em thiếu niên bước ra khỏi giảng đường. Simic ngẩng lên ngó chút xíu, và đọc tiếp. Thêm vài em bước ra. Simic đọc tiếp.
Sau bốn hay năm bài thơ ngắn, hơn phân nửa khán giả – các nhà thơ học trò trong các trường trung học từ khắp nơi trong thành phố khổng lồ này – đã bỏ đi, và một số em ngồi lại thì bận nói chuyện với nhau thể như Simic không có mặt ở đó.
A ha, đó là nỗi đau của nhà thơ, ngay cả một nhà thơ thắng giải Pulitzer và là người được đề cử lần thứ ba cho Giải National Book Award đầy uy tín hồi tháng trước. Simic, 65 tuổi, người vừa xuất bản hai tuyển tập năm nay – một tuyển tập thơ “The Voice at 3:00 a.m.,” và một tập tiểu luận, “The Metaphysician in the Dark” – biết cụ thể, không ảo tưởng gì, về chuyện khi một nhà thơ lên tiếng thì có ai chịu nghe không.
Hay như Paul Muldoon, nhà thơ thắng giải thi ca Pulitzer năm nay, mới nói gần đây, “Thơ không có thể cạnh tranh với ‘American Idol,’ nhưng nó có muốn thế không"”
(American Idol là một chương trình truyền hình trên đài Fox/11, chuyên tuyển lựa các tài năng mới trong tuổi trẻ Hoa Kỳ. Tài năng mới đây không có chỗ cho thi ca, vì chủ yếu là tìm nhạc sĩ, ca sĩ, hài diễn... để cung ứng cho phim ảnh và TV.)
Dân Mỹ – không giống như dân ở các nơi như Ai Nhĩ Lan, Châu Mỹ Latin, hay Đông Âu – đã luôn luôn có một quan hệ gian nan với các nhà thơ, theo lời Simic. Tại những nơi kia, các nhà thơ có thể không nổi tiếng như tài tử xi nê, nhưng các nhà thơ Seamus Heaney, Octavio Paz và Wislawa Szymborska được ái mộ ở đất nước của họ y hệt như các tài tử Meryl Streep, Harrison Ford và Denzel Washington tại Hoa Kỳ.
Nhà thơ Simic nói, “Thật khó mà nghĩ rằng đã từng có vai trò quần chúng cho một nhà thơ Hoa Kỳ. Các nhà thơ Whitman và Dickinson gần như đương thời không ai biết tới, mặc dù Whitman tự nhận, vai trò thì nói lên cho tất cả chúng ta.” Ông nói một cách khô khan, “Không ai biết tới họ cả.”
Nhà thơ Simic khi nêu tên Whitman và Dickinson, là nêu lên 2 thái cực dị biệt của thi ca. Cả hai nhà thơ quá cố này có hai văn phong hoàn toàn dị biệt: Thơ Whitman lời tự nhiên, mạnh mẽ, dài dòng, gần văn nói, sức thơ trôi chảy ào ạt như sông dài biển rộng; còn thơ Dickinson u ẩn, ít lời, khó hiểu hơn, cao nhã và kín đáo như ngọn suối trên thượng nguồn. Ý Simic nêu lên 2 người nổi tiếng thượng thặng và ở hai cực dị biệt để nói là dân Mỹ đương thời không biết gì tới họ. Chỉ tới đời sau, thơ họ vào sách giáo khoa mới được các sinh viên buộc phải học và biết tới.
Người khác phàn nàn thì còn phải ngờ vực, nhưng Simic hẳn là phải khác, vì ông đã in hơn 60 cuốn sách, trong đó có đủ thể loại như tuyển tập thơ, dịch thuật và tiểu luận. Heaney, người thắng giải Nobel Văn Chương, đã từng ca ngợi Simic trên tạp chí People là “Thơ cuả Simic bước ra và nhảy múa trên các quả banh của bàn chân của nó... Simic là bậc thầy của những gì siêu thực.”
Simic dạy Anh Văn tại Đại Học New Hampshire, sinh quán ở cựu Nam Tư. Đến Hoa Kỳ với mẹ năm 1954 để theo cha, người làm việc cho một hãng Hoa Kỳ. Ông bắt đầu làm thơ từ trung học ở Chicago và rồi tốt nghiệp Đại Học New York với văn bằng về Nga Ngữ. Giữa khoảng thời gian đó, ông có 2 năm phục vụ trong quân đội Mỹ.
Ông kể là mình dính với thi ca, khi cha dẫn ông đi xem nhạc sĩ Coleman Hawkins chơi nhạc jazz với kèn saxophone. Simic kể lại, “Bạn có thể nói là thằng nhóc dính chấu luôn. Nhạc jazz biến tôi thành một người Mỹ và một nhà thơ.”
Tuyển tập các bài thơ xuôi của ông nhan đề “The World Doesn’t End” đã đem giải Pulitzer cho ông năm 1990.
Sau bốn hay năm bài thơ ngắn, hơn phân nửa khán giả – các nhà thơ học trò trong các trường trung học từ khắp nơi trong thành phố khổng lồ này – đã bỏ đi, và một số em ngồi lại thì bận nói chuyện với nhau thể như Simic không có mặt ở đó.
A ha, đó là nỗi đau của nhà thơ, ngay cả một nhà thơ thắng giải Pulitzer và là người được đề cử lần thứ ba cho Giải National Book Award đầy uy tín hồi tháng trước. Simic, 65 tuổi, người vừa xuất bản hai tuyển tập năm nay – một tuyển tập thơ “The Voice at 3:00 a.m.,” và một tập tiểu luận, “The Metaphysician in the Dark” – biết cụ thể, không ảo tưởng gì, về chuyện khi một nhà thơ lên tiếng thì có ai chịu nghe không.
Hay như Paul Muldoon, nhà thơ thắng giải thi ca Pulitzer năm nay, mới nói gần đây, “Thơ không có thể cạnh tranh với ‘American Idol,’ nhưng nó có muốn thế không"”
(American Idol là một chương trình truyền hình trên đài Fox/11, chuyên tuyển lựa các tài năng mới trong tuổi trẻ Hoa Kỳ. Tài năng mới đây không có chỗ cho thi ca, vì chủ yếu là tìm nhạc sĩ, ca sĩ, hài diễn... để cung ứng cho phim ảnh và TV.)
Dân Mỹ – không giống như dân ở các nơi như Ai Nhĩ Lan, Châu Mỹ Latin, hay Đông Âu – đã luôn luôn có một quan hệ gian nan với các nhà thơ, theo lời Simic. Tại những nơi kia, các nhà thơ có thể không nổi tiếng như tài tử xi nê, nhưng các nhà thơ Seamus Heaney, Octavio Paz và Wislawa Szymborska được ái mộ ở đất nước của họ y hệt như các tài tử Meryl Streep, Harrison Ford và Denzel Washington tại Hoa Kỳ.
Nhà thơ Simic nói, “Thật khó mà nghĩ rằng đã từng có vai trò quần chúng cho một nhà thơ Hoa Kỳ. Các nhà thơ Whitman và Dickinson gần như đương thời không ai biết tới, mặc dù Whitman tự nhận, vai trò thì nói lên cho tất cả chúng ta.” Ông nói một cách khô khan, “Không ai biết tới họ cả.”
Nhà thơ Simic khi nêu tên Whitman và Dickinson, là nêu lên 2 thái cực dị biệt của thi ca. Cả hai nhà thơ quá cố này có hai văn phong hoàn toàn dị biệt: Thơ Whitman lời tự nhiên, mạnh mẽ, dài dòng, gần văn nói, sức thơ trôi chảy ào ạt như sông dài biển rộng; còn thơ Dickinson u ẩn, ít lời, khó hiểu hơn, cao nhã và kín đáo như ngọn suối trên thượng nguồn. Ý Simic nêu lên 2 người nổi tiếng thượng thặng và ở hai cực dị biệt để nói là dân Mỹ đương thời không biết gì tới họ. Chỉ tới đời sau, thơ họ vào sách giáo khoa mới được các sinh viên buộc phải học và biết tới.
Người khác phàn nàn thì còn phải ngờ vực, nhưng Simic hẳn là phải khác, vì ông đã in hơn 60 cuốn sách, trong đó có đủ thể loại như tuyển tập thơ, dịch thuật và tiểu luận. Heaney, người thắng giải Nobel Văn Chương, đã từng ca ngợi Simic trên tạp chí People là “Thơ cuả Simic bước ra và nhảy múa trên các quả banh của bàn chân của nó... Simic là bậc thầy của những gì siêu thực.”
Simic dạy Anh Văn tại Đại Học New Hampshire, sinh quán ở cựu Nam Tư. Đến Hoa Kỳ với mẹ năm 1954 để theo cha, người làm việc cho một hãng Hoa Kỳ. Ông bắt đầu làm thơ từ trung học ở Chicago và rồi tốt nghiệp Đại Học New York với văn bằng về Nga Ngữ. Giữa khoảng thời gian đó, ông có 2 năm phục vụ trong quân đội Mỹ.
Ông kể là mình dính với thi ca, khi cha dẫn ông đi xem nhạc sĩ Coleman Hawkins chơi nhạc jazz với kèn saxophone. Simic kể lại, “Bạn có thể nói là thằng nhóc dính chấu luôn. Nhạc jazz biến tôi thành một người Mỹ và một nhà thơ.”
Tuyển tập các bài thơ xuôi của ông nhan đề “The World Doesn’t End” đã đem giải Pulitzer cho ông năm 1990.
Gửi ý kiến của bạn