Pháp Hạnh tổng hợp và chuyển dịch
Ngày 19 tháng 2 năm 2004, một trong những ngôi tháp thiêng liêng nhất của Phật giáo là Tháp Đại Bồ Đề đã được chính thức công nhận là di sản văn hoá thế giới bởi Cơ Quan Văn Hoá, Xã Hội, Và Giáo Dục Liên Hiệp Quốc (UNESCO) trong một buổi lễ long trọng diễn ra tại đây. Buổi lễ này đã được chứng minh và tham dự của chư Tăng khắp nơi trên thế giới về tham dự. Ngôi tháp Đại Bồ Đề ghi nhớ thánh địa nơi đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành Đạo. Hàng ngàn ngọn nến đã được thắp lên trên tháp khi 400 phái đoàn từ 25 quốc gia đến tham dự buổi lễ. Một phi trường quốc tế đã được xây dựng một năm trước đây ở Gaya cách Bồ Đề Đạo Tràng 25 km nơi các chuyến bay chở Phật tử từ Thái Lan và Tích Lan đáp xuống mỗi tuần. Các nhà chuyên môn tin rằng ngôi tháp này đã có mặt từ thế kỷ thứ năm hay sáu. Đây là tháp Phật giáo xưa nhất xây dựng hoàn toàn bằng gạch. Tháp này sống còn sau bao cuộc tàn sát bởi các đại đế Hồi Giáo Mughal trong suốt 500 năm cai trị Ấn Độ.
Các giới chức của Ấn Độ đã nói rằng nơi đây trong tương lai sẽ sánh vai với các với thánh địa Vatican (Thiên Chúa Giáo La Mã) và Mecca (Hồi Giáo). Có gần 150 tổ chức Phật giáo làm từ thiện xã hội và tổ chức sinh hoạt để nâng cấp hạ tầng cơ sở của vùng này. Trong dịp này, một hội nghị Phật giáo đã được tổ chức tại New Dehli, nơi đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói chuyện với các đại biểu Phật giáo đến từ khắp nơi trên thế giới. Dưới đây là bản tóm lược bài nói chuyện của đức Đạt Lai Lạt Ma với tựa đề: "Tầm Quan Trọng Của Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới".
Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ - Trong thế kỷ 20, nhiều thay đổi lớn đã diễn ra từ những thí nghiệm và khai triển của hoạt động con người trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, và khoa học. Qua kinh nghiệm của hàng trăm năm vừa qua, chúng ta biết ơn tầm quan trọng của tự do và những đóng góp mật thiết từ những cá nhân và nổ lực của thành phần tư nhân trong việc cải tiến nền kinh tế. Chúng ta cũng bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của việc ngừng sự sản xuất và sinh sôi các vũ khí có sức hủy diệt lớn lao.
Những khó khăn và thử thách mà chúng ta đương đầu đã giúp chúng ta trưởng thành. Vì vậy, từ những năm của thế kỷ 20 đến những năm của thế kỷ 21, đã có những biến chuyển tích cực trong suy nghĩ và chiều hướng hướng giải quyết vấn đề của con người chúng ta.
Trước đó, người ta nghĩ rằng hạnh phúc của con người chỉ có được qua sự hài lòng thỏa mãn về vật chất. Một năng lượng to lớn của con người được dồn vào phát triển vật chất. Tuy nhiên, những năm hạ màn của thế kỷ đã cho thấy một sự hiểu biết lan rộng của nhân loại rằng phát triển về vật chất không thôi chưa đủ. Thêm vào đó, nhiều người đang nhận ra rằng cái nhu cầu phải sử dụng bất bạo lực để xây dựng hoà bình và bảo vệ mội trường sống tự nhiên.
Chúng ta cần phải tạo dựng sự phát triển nội tại bằng cách nuôi dưỡng vun bồi những lý tưởng bất bạo lực, hoà bình, và phá bỏ chiến tranh trong nội tâm của mình. Vì lý do này, đây là lúc hợp thời để tất cả các truyền thống tôn giáo phát huy những phẩm chất tích cực của từ bi, khoan dung, biết đủ, và tự chế.
Như vậy, các truyền thống tôn giáo chúng ta có một vai trò quan trọng. Cần nên có sự hiểu biết tốt đẹp và hòa hợp giữa các truyền thống tôn giáo trên thế giới; các truyền thống tôn giáo này cần phải dấn thân vào nổ lực chung để đóng góp cho phúc lợi của con người.
Giáo pháp trên 2500 năm của đức Phật có vai trò quan trọng trong sứ mạng này vì Phật giáo là một tôn giáo hy hữu vận động cho khái niệm về liên đới tồn tại (nhân duyên), một khái niệm rất gần gũi với những nguyên tắc cơ bản của khoa học hiện đại.
Có những truyền thống Phật giáo hướng tới sự kết tập kinh điển được lưu truyền lại bằng ngôn ngữ chữ Phạn như là nguồn cội của mình và có những truyền thống Phật giáo hướng tới truyền thống trong kinh điển thuộc truyền thống ngôn ngữ Sanskrit. Truyền thống thứ hai này đã đạt đến đỉnh cao của nó tại trường đại học Nalanda cổ xưa, nơi mà văn chương và hiểu biết về triết lý cũng nhưng lý luận đã được thăng tiến phát triển sâu đậm bởi những học giả Phật giáo đương thời. Truyền thống ngôn ngữ Sanskrit là một phần mật thiết của di sản Phật giáo. Mãi cho đến gần đây, ít có sự tiếp xúc và tương tác ngay cả giữa những người Phật tử với nhau. Trong tương lai, chúng ta cần phải khuyến khích và tạo ra sự trao đổi kiến thức và kinh nghiệm giữa các truyền thống khác nhau của chúng ta cũng như cải tiến sự thông tin tiếp xúc với nhau.
Khi tôi còn trẻ và đi học ở Tây Tạng, như bao người Tây Tạng khác, tôi coi Ấn Độ như là "Aryabhumi", Đất Thánh, là cội nguồn của Phật giáo và văn hoá. Như bao Phật tử thuần thành khác, tôi liên tưởng Bồ Đề Đạo Tràng với sự chứng đắc cao nhất trên con đường tâm linh, sự đắc thành giác ngộ tuyệt đối của đức Phật. Đó là nơi mà tôi mong mỏi được thăm viếng. May mắn thay, cơ hội đã đến vào năm 1956 với lời mời từ Hội Đại Bồ Đề (Mahabodhi Society) để tham dự lễ Phật đản tại đây.
Cuối cùng thì tôi đã được đặt chân nơi hiện hữu của Ngôi Giác Ngộ. Lần đầu đặt chân đến đây, tôi cảm nhận một nỗi xúc động sâu thẩm. Quán tưởng đến thành quả vĩ đại của đức Phật Thích Ca Mâu Ni nơi đây, tôi đã không quên nhớ lại lòng từ ái vô lượng của Ngài đối với muôn loài. Không những Ngài đạt đến sự hoàn hảo cho chính mình, mà Ngài còn vén mở cho mỗi một chúng ta thấy được tiềm năng sẳn có để giác ngộ của chúng sanh. Lúc bấy giờ cũng như hôm nay, tôi tin tưởng rằng giáo pháp của đức Phật có thể mang đến không những an lạc nội tâm trong cuộc sống của nhiều cá nhân, mà nó còn có thể dẫn đến hòa bình giữa các quốc gia với nhau.