Vào đầu năm 1998, tôi có quen với một cô gái, sau khi về sống chung tôi mới biết là cô ta đã có một đứa con gái 2 tuổi với người chồng cũ. Tuy nhiên, vì nhu cầu tình cảm nên chúng tôi đã mướn nhà và sống chung với nhau.
Vào cuối năm 1998, cô ta đề nghị là tôi nên làm hôn thú với cô ta mà không cần phải tổ chức đám cưới và tôi đã đồng ý với đề nghị đó của cô ta, và thế là chúng tôi lập hôn thú với nhau.
Sau đó chúng tôi đến sinh sống tại một khu tương đối rất ít người Việt, đa số là người Úc và người di dân.
Chúng tôi sống hạnh phúc như những gia đình khác, tôi xem đứa con gái riêng của cô ta như là con của tôi. Tuy nhiên, đến tháng 2 năm 2001, cô ta đã bỏ nhà và đến sống chung với bạn cô ta mà không cho tôi biết lý do. Cách đây chừng 3 tháng, tôi được tống đạt đơn xin ly dị. Sau đó, mặc dầu không ra hầu tòa, tôi đã nhận được một bản copy liên hệ đến quyết định của Tòa Án Gia Đình cho phép cô ta ly dị.
Cách dây chừng 6 tuần lễ, tôi nhận được thư của Child Support Agency yêu cầu tôi phải trả tiền cấp dưỡng cho đứa bé con riêng của cô ta, đồng thời cơ quan này cũng yêu cầu tôi phải trả luôn tiền mà tôi còn thiếu trong thời gian cô ta rời nhà và đi sống ly thân.
Xin LS cho biết là việc làm đó của Child Support Agency có đúng theo sự quy định của luật pháp hay không" Tôi thấy điều này thật phi lý khi tôi bị buộc phải trả tiền cấp dưỡng cho đứa bé gái con của cô ta không"
Trả lời: Điều 72 của “Đạo Luật Gia Đình” (the Family Law Act) quy định rằng “Bên hôn phối phải chịu trách nhiệm cấp dưỡng cho bên kia . . . , nếu, và chỉ nếu, đương sự bên kia không thể tự cung cấp cho mình một cách đầy đủ dù: (a) bởi lý do là phải chăm sóc và kiểm soát đứa trẻ của hôn phối chưa đạt đến 18 tuổi”. (A party to a marriage is liable to maintain the other party . . . , if, and only if, that other party is unable to support herself or himself adequately whether: (a) by reason of having the care and control of a child of the marriage who has not attained the age of 18 years).
Để có thể quyết định là liệu đương sự phía bên kia có quyền được cấp dưỡng hay không tòa phải xét xem nhiều yếu tố khác như đã được quy định trong Điều 75(2) của “Đạo Luật Gia đình”.
Điều 75(2)(e) quy định rằng: “Các vấn đề cần phải được lưu tâm là: (e) trách nhiệm của mỗi bên đương sự phải cấp dưỡng cho bất cứ người nào khác” (The matters to be taken into account are: (e) the responsibilities of either party to support any other person).
Điều 55A(3) quy định rằng “Nhằm vào những mục đích của điều khoản này, đứa bé (bao gồm đứa bé thuộc về hôn phối trước đây của người chồng hoặc người vợ, đứa bé được nhận nuôi bởi một hoặc cả hai người hoặc đứa bé không phải là con của một hoặc cả hai người) là con của hôn phối nếu đứa trẻ đó được đối xử bởi người chồng và người vợ như là đứa con thuộc gia đình của họ vào lúc thích đáng” (For the purposes of this section, a child (including an ex-nuptial child of either the husband or the wife, a child adopted by either of them or a child who is not a child of either of them) is a child of the marriage if the child was treated by the husband and wife as a child of their family at the relevant time).
Vấn đề được đặt ra là liệu một bên hôn phối có phải chịu trách nhiệm đối với việc cấp dưỡng cho các đứa con của “người vợ thứ” (a second wife) hoặc các đứa con của “người vợ ngoại hôn” (de facto wife) hay không mặc dù các đứa bé đó không phải là con của đương sự"
Trong quá khứ tòa đã xử rằng nhu cầu của các đứa con thuộc về cuộc hôn nhân lần thứ nhất phải được ưu tiên hơn đối các đứa con của ‘người vợ thứ” hoặc của “người vợ ngoại hôn”. Tuy nhiên, “trong vụ Hôn Nhân của Axtell” (in the Marriage of Axtell) (1982), tòa đã xác quyết rằng quyết định đó không còn thích hợp nữa.
Dựa vào luật pháp cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng việc ông nhận được thư yêu cầu ông phải trả tiền cấp dưỡng, mặc dầu đứa bé không phải là con ruột của ông, là một điều được luật pháp quy định. Tuy nhiên, việc trả tiền đó còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác. Ông có quyền khước từ việc trả tiền cấp dưỡng đó và yêu cầu tòa án đưa ra phán quyết liên hệ đến vấn đề này.
Tôi đề nghị ông nên đến gặp LS để được hướng dẫn tường tận hơn.
*
Hỏi (ông Nguyễn Quốc Dũng [Cabramatta]): Tôi có một số vấn đề không biết xin LS hướng dẫn giùm:
1. Tôi có một căn nhà 3 phòng, tôi ở một phòng, ba má tôi ở một phòng, và anh chị tôi ở một phòng. Hàng tháng ba má cùng anh chị tôi trả tiền nhà cho tôi, với tính cách là share nha. Tôi có làm giấy cho share nhà để ba má cùng anh chị tôi nộp cho phòng xã hội. Vậy số tiền này tôi có phải khai thuế hay không"
2. Tiền lương của tôi hàng năm được tính thuế riêng, còn tiền share nhà được tính riêng hay cả hai khoản tiền này được cộng chung lại với nhau rồi tính thuế"
3. LS có thể cho biết thêm được là mức lợi tức hàng năm bao nhiêu thì phải đóng thuếu bao nhiêu phần trăm của lợi tức. Thí dụ; lợi tức dưới $30,000 một năm, dưới $40,000, dưới $50,000 v.v. . .
Trả lời: 1. Số tiền ông nhận được từ ba má cũng như anh chị do việc chia phòng ra để ở và ông có làm giấy nhận số tiền đó thường xuyên, hàng tuần hoặc hàng tháng như là một nguồn lợi tức thâu được từ căn nhà do ông làm chủ, thì số tiền đó phải khai thuế.
2. Cả hai khoản tiền đó được cộng chung lại để tính thuế. Tuy nhiên, nếu căn nhà đó còn thiếu nợ của ngân hàng thì ông sẽ được hưởng sự khấu trừ thuế đặc biệt liên hệ đến số tiền lời hàng tháng mà ông phải trả cho ngân hàng đối với số lợi tức mà ông thâu được do sự cho thuê mướn đó mang lại. Việc này khá phức tạp vì những gì ông đang làm liên hệ đến một loại thuế gọi là capital gains tax (thuế đánh vào lợi nhuận kiếm được do vốn [đầu tư]). Vì thế, ông nên liên lạc với văn phòng kế toán để được cố vấn tường tận hơn.
3. Nếu ông là công dân Úc hoặc thường trú nhân thì mức thuế phải đóng được tính như sau: Từ $1 đến $6,000 ông không phải đóng thuế. Từ $6,001 đến $20,000 ông phải đóng 17% cho mỗi đô la [$2,380]. Từ $20,001 đến $50,000 ông phải đóng 30% cho mỗi đô la [$2,380 +$9,000 = $11,380]. Từ $50,001 đến $60,000 ông phải đóng 42% cho mỗi đô la [$11,380+$4,200=$$15,580]. Từ $60,001 trở lên ông phải đóng 46% cho mỗi đô la.
Tôi đề nghị ông nên liên lạc với văn phòng kế toán để được hướng dẫn tường tận hơn.