Chuyện dài thương ước Việt-Mỹ nếu được xuất bản vào tháng tới cũng đã trở thành nhạt phèo vì Hà Nội ngâm tôm quá kỹ, khiến ruột gan nó thế nào người ta đã thấy rõ. Dù vậy nó cũng đạt được kỷ lục quốc tế vì đã kéo dài được một năm. Đây là tài bài bây, lằng nhằng, cò kè bớt một thêm hai chăng" Sự thật đó chỉ là tình trạng không tạo nổi chính sách kinh tế dứt khoát trong một đám người lãnh đạo thiếu đồng thuận giữa lúc cả nước lâm nạn suy thoái, đầu tư bỏ nước ra đi.
Nội dung của bản Hiệp ước Mậu dịch Việt-Mỹ chỉ có những điểm thông thường của mọi mối quan hệ thương mại quốc tế như giảm thuế nhập cảng hàng hóa và dịch vụ, bảo vệ tác quyền trí tuệ và cải thiện mối tương quan đầu tư giữa hai nước. Thế nhưng ai cũng thấy rõ Hà Nội đã khựng lại không dám ký chỉ vì “sợ mất quyền kiểm soát kinh tế khi mở cửa thị trường”. Nếu vậy xin hỏi tại sao năm 1986 đảng Cộng sản Việt Nam họp đại hội đã thông qua nghị quyết “đổi mới” để mở cửa theo kinh tế thị trường" Tại sao lúc đó đảng từ bỏ kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách êm ru mà không có phe nào, kể cả bảo thủ giáo điều đứng lên phản đối" Đây là chuyện ngắn lãnh đạo tôi muốn đề cập đến trong bài này.
Sở dĩ năm 1986 đảng CSVN dám hăng hái đổi mới kinh tế không phải vì có sáng kiến tự xuất của trí tuệ lãnh đạo mà chỉ bắt chước Liên Sô, theo chỉ thị của Liên Sô mà làm. Năm 1986, đảng Cộng sản Liên Sô cũng họp đại hội, Tổng bí thư mới của đảng lúc đó là Mikhail Gorbachev đã bất ngờ đề ra sách lược kinh tế mới là glasnost (mở cửa) và perestroika (tái cấu trúc). Đàn anh đã làm, ta cứ làm theo, thế là đảng Cộng sản Việt Nam hồ hởi nhất trí thông qua, không có anh nào ho he phản đối. Đảng chỉ nhất trí được khi có thế lực ngoại lai lãnh đạo giùm cho đảng. Lúc đó Lê Duẫn đã chết, Nguyễn Văn Linh đang đi công tác Cuba được gọi về lãnh chức Tổng bí thư đảng. Trong bộ Chính trị lúc đó, Linh là người tương đối tiếp xúc với thế giới Cộng sản bên ngoài nhiều hơn. Nhưng chẳng may Linh lại không có tài cán gì, gập đúng lúc cái chết của Lê Duẫn làm họa tranh chấp quyền lực nội bộ gay go hơn trước viễn tượng “đổi mới kinh tế”. Chính vì vậy cà rịch cà tang mãi đến năm 1989 đổi mới kinh tế mới có bước đầu cụ thể. Nhưng năm 1991 Liên Sô sụp đổ, chế độ cộng sản Việt Nam bỗng thấy cần phải đón nhận đô-la tư bản để tự cứu sau khi nguồn viện trợ từ Mạc Tư Khoa tắt ngúm. Các phe phái trong đảng tìm biện pháp dung hòa đưa anh ba phải Đỗ Mười lên làm Tổng bí thư đảng.
Vậy đến đại hội đảng năm 1996, tại sao “đổi mới kinh tế” bị khựng lại với sách lược “đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa và quốc doanh lãnh đạo kinh tế cả nước”" Đó là vì cuộc đấu đá nội bộ nhờ thấm mùi đồng tiền tư bản nên đã trở thành công khai và phe bảo thủ giáo điều đã thắng với lập luận áp đảo là “tiếp tục đổi mới kinh tế chỉ làm đảng suy yếu, có thể mất quyền kiểm soát”. Lời thề “tận trung với giáo điều” sự thật chỉ xuất phát từ miệng luỡi của mấy anh bảo thủ, nhưng trong bụng họ chỉ có hai chữ “làm giầu” bởi vì mùi vị đô-la đã xông lên đến óc. Đỗ Mười đã đề ra khẩu hiệu “người người làm giầu, nhà nhà làm giầu”, ai cũng có quyền làm giầu. Nhưng bọn bảo thủ đã biến thành khẩu hiệu “vợ con ta làm giầu, cháu gần cháu xa ta làm giầu, cả phe ta làm giầu”. Làm giầu theo phe phái vây cánh như vậy, chỉ có tỏ ra trung thành với ý thức hệ mới làm được. Con đường làm giầu mau lẹ nhất là lợi dụng chức vụ và quyền hành độc đoán, vì thế bảo thủ đã liên minh với tham nhũng. Cho đến nay phe bảo thủ chống ký kết Hiệp ước Thương mại với Mỹ là vì sợ đảng mất độc quyền quốc doanh, cứ địa của các con trùng tham nhũng.
Như vậy nếu Hà Nội ký thương ước với Mỹ, phe bảo thủ “một bụng giáo điều” chịu thua chăng" Khi Hà Nội vừa bắn tin sắp ký, người ta thấy báo nhà nước Saigon Giải Phóng đăng một bài phỏng vấn Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nói đến những căn bệnh của chế độ trong đó có vấn đề bộ máy hành chánh cồng kềnh và vô hiệu năng, kể cả căn bệnh tham nhũng. Nhưng ông ta nhấn mạnh: “Điều quan trọng nhất là chúng ta vẫn giữ con đường xã hội chủ nghĩa do đảng và nhân dân đã chọn”.
Đây là phe bảo thủ mớm lời cho ông Phiêu chăng" Lời tuyên bố có nhiều ý ngầm giữa tình trạng rạn nứt và kình chống gay go giữa các phe bảo thủ và đổi mới. Sắp đến lúc phải ký kết thương ước để mở cửa kinh tế thật sự, câu nói cũng có vẻ trấn an phe bảo thủ giáo điều, với lời nhắn nhủ ngầm “xin hãy để chúng tôi làm rồi chờ đại hội đảng năm 2001 sẽ tính”. “Con đường xã hội chủ nghĩa” là thứ từ ngữ mang nhiều ý nghĩa, nhưng chưa từng thấy các nhà thông thái Hà Nội giải thích làm thế nào dung hòa được một chế độ xã hội chủ nghĩa chuyên quyền độc đoán với một chế độ kinh tế thị trường mở cửa theo quy luật đầu tư và mậu dịch thế giới. Dù sao ông Phiêu cũng đã từ bỏ chiêu bài “dân chủ tập trung” nay đã hết linh ứng, để nói rằng đảng đang thực thi “dân chủ ở cấp dân thấp, dân chủ trực tiếp và dân chủ qua bầu cử”. Cái “đổi mới” từ ngữ này cũng chỉ là một thủ đoạn mập mờ đánh lận con đen để người nghe tha hồ suy diễn. Nhưng dù suy diễn ra cách nào cũng không thể thoát khỏi một định nghĩa giản dị. Không thể có thứ dân chủ nào vi phạm nhân quyền, đàn áp tự do báo chí tự do tôn giáo, bịt miệng bỏ tù những tiếng nói ôn hòa yêu cầu cải tổ chế độ.
Liệu bản Hiệp ước Mậu dịch có dung hòa được với chế độ kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa của mấy ông bảo thủ được không" Các ông khỏi trả lời vì đã có bản văn hiệp ước trả lời giùm.
Nội dung của bản Hiệp ước Mậu dịch Việt-Mỹ chỉ có những điểm thông thường của mọi mối quan hệ thương mại quốc tế như giảm thuế nhập cảng hàng hóa và dịch vụ, bảo vệ tác quyền trí tuệ và cải thiện mối tương quan đầu tư giữa hai nước. Thế nhưng ai cũng thấy rõ Hà Nội đã khựng lại không dám ký chỉ vì “sợ mất quyền kiểm soát kinh tế khi mở cửa thị trường”. Nếu vậy xin hỏi tại sao năm 1986 đảng Cộng sản Việt Nam họp đại hội đã thông qua nghị quyết “đổi mới” để mở cửa theo kinh tế thị trường" Tại sao lúc đó đảng từ bỏ kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách êm ru mà không có phe nào, kể cả bảo thủ giáo điều đứng lên phản đối" Đây là chuyện ngắn lãnh đạo tôi muốn đề cập đến trong bài này.
Sở dĩ năm 1986 đảng CSVN dám hăng hái đổi mới kinh tế không phải vì có sáng kiến tự xuất của trí tuệ lãnh đạo mà chỉ bắt chước Liên Sô, theo chỉ thị của Liên Sô mà làm. Năm 1986, đảng Cộng sản Liên Sô cũng họp đại hội, Tổng bí thư mới của đảng lúc đó là Mikhail Gorbachev đã bất ngờ đề ra sách lược kinh tế mới là glasnost (mở cửa) và perestroika (tái cấu trúc). Đàn anh đã làm, ta cứ làm theo, thế là đảng Cộng sản Việt Nam hồ hởi nhất trí thông qua, không có anh nào ho he phản đối. Đảng chỉ nhất trí được khi có thế lực ngoại lai lãnh đạo giùm cho đảng. Lúc đó Lê Duẫn đã chết, Nguyễn Văn Linh đang đi công tác Cuba được gọi về lãnh chức Tổng bí thư đảng. Trong bộ Chính trị lúc đó, Linh là người tương đối tiếp xúc với thế giới Cộng sản bên ngoài nhiều hơn. Nhưng chẳng may Linh lại không có tài cán gì, gập đúng lúc cái chết của Lê Duẫn làm họa tranh chấp quyền lực nội bộ gay go hơn trước viễn tượng “đổi mới kinh tế”. Chính vì vậy cà rịch cà tang mãi đến năm 1989 đổi mới kinh tế mới có bước đầu cụ thể. Nhưng năm 1991 Liên Sô sụp đổ, chế độ cộng sản Việt Nam bỗng thấy cần phải đón nhận đô-la tư bản để tự cứu sau khi nguồn viện trợ từ Mạc Tư Khoa tắt ngúm. Các phe phái trong đảng tìm biện pháp dung hòa đưa anh ba phải Đỗ Mười lên làm Tổng bí thư đảng.
Vậy đến đại hội đảng năm 1996, tại sao “đổi mới kinh tế” bị khựng lại với sách lược “đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa và quốc doanh lãnh đạo kinh tế cả nước”" Đó là vì cuộc đấu đá nội bộ nhờ thấm mùi đồng tiền tư bản nên đã trở thành công khai và phe bảo thủ giáo điều đã thắng với lập luận áp đảo là “tiếp tục đổi mới kinh tế chỉ làm đảng suy yếu, có thể mất quyền kiểm soát”. Lời thề “tận trung với giáo điều” sự thật chỉ xuất phát từ miệng luỡi của mấy anh bảo thủ, nhưng trong bụng họ chỉ có hai chữ “làm giầu” bởi vì mùi vị đô-la đã xông lên đến óc. Đỗ Mười đã đề ra khẩu hiệu “người người làm giầu, nhà nhà làm giầu”, ai cũng có quyền làm giầu. Nhưng bọn bảo thủ đã biến thành khẩu hiệu “vợ con ta làm giầu, cháu gần cháu xa ta làm giầu, cả phe ta làm giầu”. Làm giầu theo phe phái vây cánh như vậy, chỉ có tỏ ra trung thành với ý thức hệ mới làm được. Con đường làm giầu mau lẹ nhất là lợi dụng chức vụ và quyền hành độc đoán, vì thế bảo thủ đã liên minh với tham nhũng. Cho đến nay phe bảo thủ chống ký kết Hiệp ước Thương mại với Mỹ là vì sợ đảng mất độc quyền quốc doanh, cứ địa của các con trùng tham nhũng.
Như vậy nếu Hà Nội ký thương ước với Mỹ, phe bảo thủ “một bụng giáo điều” chịu thua chăng" Khi Hà Nội vừa bắn tin sắp ký, người ta thấy báo nhà nước Saigon Giải Phóng đăng một bài phỏng vấn Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nói đến những căn bệnh của chế độ trong đó có vấn đề bộ máy hành chánh cồng kềnh và vô hiệu năng, kể cả căn bệnh tham nhũng. Nhưng ông ta nhấn mạnh: “Điều quan trọng nhất là chúng ta vẫn giữ con đường xã hội chủ nghĩa do đảng và nhân dân đã chọn”.
Đây là phe bảo thủ mớm lời cho ông Phiêu chăng" Lời tuyên bố có nhiều ý ngầm giữa tình trạng rạn nứt và kình chống gay go giữa các phe bảo thủ và đổi mới. Sắp đến lúc phải ký kết thương ước để mở cửa kinh tế thật sự, câu nói cũng có vẻ trấn an phe bảo thủ giáo điều, với lời nhắn nhủ ngầm “xin hãy để chúng tôi làm rồi chờ đại hội đảng năm 2001 sẽ tính”. “Con đường xã hội chủ nghĩa” là thứ từ ngữ mang nhiều ý nghĩa, nhưng chưa từng thấy các nhà thông thái Hà Nội giải thích làm thế nào dung hòa được một chế độ xã hội chủ nghĩa chuyên quyền độc đoán với một chế độ kinh tế thị trường mở cửa theo quy luật đầu tư và mậu dịch thế giới. Dù sao ông Phiêu cũng đã từ bỏ chiêu bài “dân chủ tập trung” nay đã hết linh ứng, để nói rằng đảng đang thực thi “dân chủ ở cấp dân thấp, dân chủ trực tiếp và dân chủ qua bầu cử”. Cái “đổi mới” từ ngữ này cũng chỉ là một thủ đoạn mập mờ đánh lận con đen để người nghe tha hồ suy diễn. Nhưng dù suy diễn ra cách nào cũng không thể thoát khỏi một định nghĩa giản dị. Không thể có thứ dân chủ nào vi phạm nhân quyền, đàn áp tự do báo chí tự do tôn giáo, bịt miệng bỏ tù những tiếng nói ôn hòa yêu cầu cải tổ chế độ.
Liệu bản Hiệp ước Mậu dịch có dung hòa được với chế độ kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa của mấy ông bảo thủ được không" Các ông khỏi trả lời vì đã có bản văn hiệp ước trả lời giùm.
Gửi ý kiến của bạn