Tôi viết "đáng buồn" thật ra chỉ để nhấn mạnh đến một vấn đề có ảnh hưởng bao trùm cuộc sống trên thế giới. Đó là hòa bình. Năm nay giải Hòa bình được trao cho một cá nhân và một tập thể: Tổng thư ký Kofi Annan và Tổ chức Liên Hiệp Quốc. Ông Annan đã đến lãnh giải, còn Ngoại trưởng Nam Hàn Han Seung-soo năm nay làm Chủ tịch Đại hội đồng LHQ đã nhân danh tổ chức quốc tế nhận giải. Việc trao giải thưởng Hòa bình cho người cầm đầu và tổ chức LHQ có ý nghĩa đặc biệt trong lúc này. Người ta muốn nói chỉ có LHQ là tổ chức thiết yếu nhất cho hòa bình. Sự thật, từ khi được thành lập năm 1948, sứ mạng của LHQ vẫn là bảo vệ hòa bình, nhưng trong suốt nửa thế kỷ qua, LHQ đã làm được những gì trong khi các cuộc chiến tranh từ lạnh đến nóng vẫn xẩy ra. Vai trò của LHQ đã được phân tích nhiều và cả những quyết định của Ủy ban giải Hòa bình Nobel cũng không tránh được một vài dị nghị trong quá khứ.
Giữa bối cảnh quốc tế của đầu thế kỷ 21, chúng tôi muốn nhìn lại vấn đề hòa bình mà từ cuối thế kỷ thứ 19, thế giới đã phải đương đầu. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm, 28 nhân vật đã lãnh giải Hòa bình Nobel nay còn sống đã tề tựu tại Oslo để thảo luận về tình trạng xung đột trên thế giới vào thế kỷ 21. Cố nhiên đề tài nóng bỏng là "nạn khủng bố". Một ủy viên của Ủy ban giải Hòa bình Nobel, ông Gunnar Staalsett, gọi vụ khủng bố phá sập hai tòa nhà chọc trời WTC ở New York là "một biểu tượng của thời đại này" và nói cuộc tấn công của khủng bố ngày 9-11 là "một sự không tặc những giá trị chung của chúng ta". Ông kết luận: "Đắc thắng của khủng bố là để biến đổi các nền dân chủ thành các phe của những nước khủng bố và chúng ta quyết phải coi kỹ để điều này sẽ không thể xẩy ra". Trong khi đó nhiều nhân vật tham dự hội nghị nói nên đánh khủng bố bằng cách giải quyết các vấn đề xã hội, kiểm soát vũ khí chớ không bằng cách tấn công quân sự, và cảnh giác chống vi phạm nhân quyền trong chiến dịch chống khủng bố.
Chúng tôi đã từng đề cập đến chuyện này ở ngay nước Mỹ, nay có vài ý kiến xin bàn góp thêm. Các bậc tu hành đạo đức, các bậc hiền giả quán quân hòa bình lúc nào cũng có khẩu khí quen thuộc là "nên hòa, không nên chiến". Điều này rất đáng phục, chỉ có khổ là "nói hòa" thì dễ, "làm hòa" thì khó. Ở Việt Nam trước đây cũng không thiếu gì các vị hủ nho mô phạm, khuyên giải: Có gì bất bình thì nói chuyện hòa nhã với nhau, đừng có đánh nhau. Cái tâm hiền hòa thật đáng quý ở một thế giới chân thật và đơn giản như thời xưa. Nhưng quan niệm hòa bình của thời đại cuối thế kỷ 19 khi lập giải Nobel đã tỏ ra không thích ứng với nửa đầu thế kỷ 20 khi có hai cuộc Thế chiến và lại càng không thích ứng với nửa sau của thế kỷ khi có cuộc chiến tranh lạnh. Nay vào đầu thế kỷ 21, nó còn trật lấc giữa tình hình thế giới vô cùng phức tạp với cuộc chiến giữa một xã hội kín và một xã hội hở.
Chiến tranh chỉ là một giai đoạn của ngoại giao. Bởi vì không có ai tự nhiên đánh nhau, người ta chỉ đánh nhau sau khi nói chuyện ngoại giao với nhau mà không giải quyết được vấn đề. Những người Hồi giáo theo thuyết chính thống có nhiều nỗi bất mãn với Tây phương và với những tôn giáo khác, một số đã gây xung đột ở Trung Đông, Kashmir, nhiều nơi tranh chấp chính trị, sắc tộc hay lãnh thổ đã mượn chiêu bài tôn giáo như ở Indonesia, Phi Luật Tân... Nhưng khi đã dùng đến thủ đoạn tàn khốc là bom tự sát để giết thật nhiều người bất kể là dân hay quân của đối phương, chiến tranh trên thế giới đã mang một bộ mặt khác hẳn. Đây có thể là sự khởi đầu của Thế chiến thứ 3 chăng" Bây giờ bảo đối phó bằng cách giải quyết những vấn đề xã hội và kiểm soát vũ khí chớ đừng đánh quân sự thì thật khôi hài. Một nước bị tấn công có quyền tự vệ, nghĩa là dùng vũ khí đánh trả, đó là luật quốc tế. Mỹ bị khủng bố tấn công, chết mấy ngàn người dân, vậy mà bảo chỉ nên giải quyết bằng hòa bình thì đúng là mơ ngủ, quá xa vời thực tế.
Thế giới đã có nhiều kinh nghiệm nói chuyện với các chế độ độc tài, những xã hội đóng kín. Ngay lúc này, các giải hòa bình Nobel cũng đang thử nói chuyện hòa bình. Tất cả 28 vị có mặt tại Oslo đã ký vào một lời kêu gọi chế độ quân phiệt Miến Điện phóng thích bà Aung San Suu Kyi, lãnh tụ phong trào dân chủ và cũng là người đã được tặng giải thưởng Hòa bình Nobel năm 1991. Liệu lời kêu gọi hòa bình này có làm bà Suu Kyi ra khỏi nhà giam không" Bầy tỏ một ước nguyện là quý, nhưng nó không tạo được phép lạ trong tình thế hiện nay để có hòa bình. Năm 1973, Ủy ban Hòa bình Nobel đã quyết định trao giải thưởng cho Lê Đức Thọ và Henry Kissinger vì đã ký hòa bình Paris. Nhưng sau đó chiến tranh vẫn tiếp tục ở Việt Nam và còn dữ dội hơn trước.
Chúng tôi nghĩ cả LHQ và Ủy ban giải Nobel đã đến lúc phải xét lại để thích ứng với những thực tế của thế kỷ 21, nếu muốn làm điều gì hữu ích cho hòa bình thế giới.