Sau hôm thứ hai, 13/9, ngày mà ai ai cũng nghĩ rằng hiệp ước thương mại Việt-Mỹ phải được ký kết tại Auckland (Tân Tây lan), nơi đang có mặt của TT Bill Clinton và Thủ tướng CSVN Phan văn Khải, việc đó đã không xảy ra.
Như chúng tôi đã từng tiên đoán từ trước là hiệp ước đó khó lòng được ký kết trong những tháng gần đây dù đôi bên đã đồng ý trên nguyên tắc các điểm chính trong hiệp ước. Khi đi vào chi tiết thì bên cộng sản mới thấy rằng còn nhiều “rắc rối” nên chưa dám đặt bút ký tên.
Giải thích sự kiện nói trên, các nhân vật trong chính quyền cộng sản có thể đã đưa ra được những luận điệu hữu lý. Ví dụ như họ bảo rằng bản tiếng Việt của hiệp ước vừa mới hoàn chĩnh xong, các cơ quan liên hệ chưa có thì giờ nghiên cứu kỹ lưởng, nhứt là đối với một số ủy viên bộ Chính trị hay ủy viên Trung Ương Đảng, không đủ Anh ngữ để hiểu hết vấn đề. Họ cũng nói rằng khi đi vào chi tiết, chính phủ cần có thời gian để suy nghĩ thêm. Một nhân vật chính thức của CSVN nói rằng bản thương ước là một vấn dề hết sức quan trọng, nó dính líu tới nhiều vấn đề khác ở Việt nam, nên các cơ quan liên hệ cần có thêm thời gian để nghiên cứu trên bản tiếng Việt. Một cố vấn pháp luật của CSVN còn nói rằng chính phủ Việt nam cần nghiên cứu kỹ lưởng bản thương ước vì nếu có điều gì sơ xuất thì nó có thể làm yếu lập trường của Việt nam vì Việt nam cũng đang xin gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO).
Nhưng các giới quan sát tại Hà nội thì cho rằng nó không đúng với sự thật.
Các giới quan sát đó nhấn mạnh rằng bản thương ước - hay đúng hơn đề nghị thương ước - đã được Hoa kỳ trao cho Việt nam từ 3 năm trước đây và đôi bên đã 10 lần nói chuyện với nhau, đã có nhiều đề nghị và phản đề nghị trao đổi cho nhau thì có điều gì mà trong 3 năm qua, bên phía Việt nam còn chưa biết tới. Mĩa mai hơn, các giới quan sát đó còn cho rằng có thể một vài chuyên viên của CSVN đã thuộc lòng bản thương ước đó từ cái dấu chấm tới cái dấu phẩy, thì làm gì cần phải nghiên cứu thêm nữa. Đối với CSVN chẳng bao giờ có việc để “nước đến trôn mới nhảy”.
Lý do thật sự là... một số các ủy viên bộ Chính trị “lạnh cẳng” như báo “South China Morning Post” nói vậy.
Theo tờ báo nói trên thì nhiều ủy viên bộ Chính trị quả đã lo ngại nhiều về ảnh hưởng của hiệp ước thương mại trong việc phải mở cửa thị trường trong nước cho các công ty Mỹ và đặt các xí nghiệp kém hiệu lực của Việt nam trong tình trạng phải cạnh tranh với các xí nghiệp của ngoại quốc. Báo đó nói: “Họ hoảng sợ rằng bản thương ước sẽ biến thành một thực tế lạnh lùng và khó khăn cho họ.”
Vậy thì đâu là lối thoát cho CSVN" Vấn đề theo ý một số người là phải làm thế nào cho Bộ Chính trị có được một đa số vững chắc ủng hộ việc đổi mới kinh tế thật sự, chứ không phải chỉ theo đuổi một nên kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như từ trước tới nay chúng ta nghe nói ở Việt nam. Hiện nay đa số đó chưa xuất hiện rõ rệt, phe chủ trương đổi mới tuy có phần nào nắm được ưu thế, nhưng chưa phải là một ưu thế tuyệt đối để tiến hành những đổi mới cần thiết và thực sự theo sự đòi hỏi của tình thế. Ngay trong Trung Ương Đảng, cơ quan quyền lực nhứt của Việt nam, cũng còn nhiều tiếng nói chống đối gay gắt mọi sự đổi mới vì họ thấy cái chết trước mắt của chủ nghĩa cộng sản khi phải chấp nhận thực thi một nền kinh tế thị trường tự do thật sự theo đúng ý nghĩa của nó. Những phần tử nầy chủ trương “thà mất nước chứ khômg muốn mất Đảng” trong khi thời thế không còn cho phép họ duy trì cái đảng cộng sản lạc hậu và phản động của những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nữa.
Và lý do của sự việc như báo International Herald Tribune ở Paris nói là Bộ chính trị chưa đồng ý ký kết, cũng như báo SCMP ở Hongkong cho rằng một số ủy viên bộ chính trị “lạnh cẳng”.
Như vậy, theo các giới quan sát tại Hà nội, phải chờ tới khi nào có một sự thay đổi trong Trung ương Đảng là cơ quan bầu lên Bộ Chính trị, mà không thể có sự thay đổi trong Trung Ương Đảng trước khi có một Đại hội Đảng, tức phải chờ cho tới khi Đại hội Đảng kỳ 9 khai mạc vào đầu năm 2001. Từ đây tới đó, phải thu xếp thế nào cho phe đổi mới có được đa số để chi phối Đại hội và bầu vào Trung ương Đảng những phần tử chủ trương đổi mới thật sự.
Theo lẽ thông thường thì như vậy - và chúng tôi nghĩ có thể là như vậy - nhưng trong vấn đề Việt nam có rất nhiều yếu tố bên ngoài có thể có những ảnh hưởng bất ngờ. Các áp lực của các tổ chức tài chánh quốc tế là một trong những yếu tố có thể làm thay đổi sự suy nghĩ của Bộ Chính trị đảng CSVN, cũng như việc ông Nguyễn mạnh Cầm, ủy viên Bộ Chính trị, phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng, ngỏ ý mời TT Bill Clinton sang thăm Việt nam nhân dịp nhà lãnh đạo Hoa kỳ đi thăm Á Châu vào đầu năm 2000. Vấn đề là làm thế nào để tăng cường thế lực của phe đổi mới ở trong nước. Về việc nầy, các giới quan sát ở Hà nội tỏ ý lạc quan rằng nội việc Nguyễn mạnh Cầm được phép ngỏ ý mời TT Clinton cũng chứng tỏ rằng Bộ Chính trị đã phần nào nghiêng về việc muốn đổi mới.
Vì thế, nếu không có yếu tố nào mới xuất hiện bất ngờ, các giới quan sát cho rằng hiệp ước thương mại Mỹ Việt khó có thể được ký kết trước mùa Xuân năm 2001, là năm mà cuộc bầu cử TT ở Hoa kỳ đã hoàn tất và Đại Hội Đảng kỳ 9 của CS Việt nam cũng được tiến hành xong. Tình hình rõ rệt hơn và theo sự suy luận của nhiều người thì CSVN khó lòng có thể chần chờ hơn nưa trong việc bình thường hóa việc giao thương với Hoa kỳ để rồi có thể bước chân vào Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO). Trừ phi CSVN muốn tự cô lập mình...
Như chúng tôi đã từng tiên đoán từ trước là hiệp ước đó khó lòng được ký kết trong những tháng gần đây dù đôi bên đã đồng ý trên nguyên tắc các điểm chính trong hiệp ước. Khi đi vào chi tiết thì bên cộng sản mới thấy rằng còn nhiều “rắc rối” nên chưa dám đặt bút ký tên.
Giải thích sự kiện nói trên, các nhân vật trong chính quyền cộng sản có thể đã đưa ra được những luận điệu hữu lý. Ví dụ như họ bảo rằng bản tiếng Việt của hiệp ước vừa mới hoàn chĩnh xong, các cơ quan liên hệ chưa có thì giờ nghiên cứu kỹ lưởng, nhứt là đối với một số ủy viên bộ Chính trị hay ủy viên Trung Ương Đảng, không đủ Anh ngữ để hiểu hết vấn đề. Họ cũng nói rằng khi đi vào chi tiết, chính phủ cần có thời gian để suy nghĩ thêm. Một nhân vật chính thức của CSVN nói rằng bản thương ước là một vấn dề hết sức quan trọng, nó dính líu tới nhiều vấn đề khác ở Việt nam, nên các cơ quan liên hệ cần có thêm thời gian để nghiên cứu trên bản tiếng Việt. Một cố vấn pháp luật của CSVN còn nói rằng chính phủ Việt nam cần nghiên cứu kỹ lưởng bản thương ước vì nếu có điều gì sơ xuất thì nó có thể làm yếu lập trường của Việt nam vì Việt nam cũng đang xin gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO).
Nhưng các giới quan sát tại Hà nội thì cho rằng nó không đúng với sự thật.
Các giới quan sát đó nhấn mạnh rằng bản thương ước - hay đúng hơn đề nghị thương ước - đã được Hoa kỳ trao cho Việt nam từ 3 năm trước đây và đôi bên đã 10 lần nói chuyện với nhau, đã có nhiều đề nghị và phản đề nghị trao đổi cho nhau thì có điều gì mà trong 3 năm qua, bên phía Việt nam còn chưa biết tới. Mĩa mai hơn, các giới quan sát đó còn cho rằng có thể một vài chuyên viên của CSVN đã thuộc lòng bản thương ước đó từ cái dấu chấm tới cái dấu phẩy, thì làm gì cần phải nghiên cứu thêm nữa. Đối với CSVN chẳng bao giờ có việc để “nước đến trôn mới nhảy”.
Lý do thật sự là... một số các ủy viên bộ Chính trị “lạnh cẳng” như báo “South China Morning Post” nói vậy.
Theo tờ báo nói trên thì nhiều ủy viên bộ Chính trị quả đã lo ngại nhiều về ảnh hưởng của hiệp ước thương mại trong việc phải mở cửa thị trường trong nước cho các công ty Mỹ và đặt các xí nghiệp kém hiệu lực của Việt nam trong tình trạng phải cạnh tranh với các xí nghiệp của ngoại quốc. Báo đó nói: “Họ hoảng sợ rằng bản thương ước sẽ biến thành một thực tế lạnh lùng và khó khăn cho họ.”
Vậy thì đâu là lối thoát cho CSVN" Vấn đề theo ý một số người là phải làm thế nào cho Bộ Chính trị có được một đa số vững chắc ủng hộ việc đổi mới kinh tế thật sự, chứ không phải chỉ theo đuổi một nên kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như từ trước tới nay chúng ta nghe nói ở Việt nam. Hiện nay đa số đó chưa xuất hiện rõ rệt, phe chủ trương đổi mới tuy có phần nào nắm được ưu thế, nhưng chưa phải là một ưu thế tuyệt đối để tiến hành những đổi mới cần thiết và thực sự theo sự đòi hỏi của tình thế. Ngay trong Trung Ương Đảng, cơ quan quyền lực nhứt của Việt nam, cũng còn nhiều tiếng nói chống đối gay gắt mọi sự đổi mới vì họ thấy cái chết trước mắt của chủ nghĩa cộng sản khi phải chấp nhận thực thi một nền kinh tế thị trường tự do thật sự theo đúng ý nghĩa của nó. Những phần tử nầy chủ trương “thà mất nước chứ khômg muốn mất Đảng” trong khi thời thế không còn cho phép họ duy trì cái đảng cộng sản lạc hậu và phản động của những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nữa.
Và lý do của sự việc như báo International Herald Tribune ở Paris nói là Bộ chính trị chưa đồng ý ký kết, cũng như báo SCMP ở Hongkong cho rằng một số ủy viên bộ chính trị “lạnh cẳng”.
Như vậy, theo các giới quan sát tại Hà nội, phải chờ tới khi nào có một sự thay đổi trong Trung ương Đảng là cơ quan bầu lên Bộ Chính trị, mà không thể có sự thay đổi trong Trung Ương Đảng trước khi có một Đại hội Đảng, tức phải chờ cho tới khi Đại hội Đảng kỳ 9 khai mạc vào đầu năm 2001. Từ đây tới đó, phải thu xếp thế nào cho phe đổi mới có được đa số để chi phối Đại hội và bầu vào Trung ương Đảng những phần tử chủ trương đổi mới thật sự.
Theo lẽ thông thường thì như vậy - và chúng tôi nghĩ có thể là như vậy - nhưng trong vấn đề Việt nam có rất nhiều yếu tố bên ngoài có thể có những ảnh hưởng bất ngờ. Các áp lực của các tổ chức tài chánh quốc tế là một trong những yếu tố có thể làm thay đổi sự suy nghĩ của Bộ Chính trị đảng CSVN, cũng như việc ông Nguyễn mạnh Cầm, ủy viên Bộ Chính trị, phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng, ngỏ ý mời TT Bill Clinton sang thăm Việt nam nhân dịp nhà lãnh đạo Hoa kỳ đi thăm Á Châu vào đầu năm 2000. Vấn đề là làm thế nào để tăng cường thế lực của phe đổi mới ở trong nước. Về việc nầy, các giới quan sát ở Hà nội tỏ ý lạc quan rằng nội việc Nguyễn mạnh Cầm được phép ngỏ ý mời TT Clinton cũng chứng tỏ rằng Bộ Chính trị đã phần nào nghiêng về việc muốn đổi mới.
Vì thế, nếu không có yếu tố nào mới xuất hiện bất ngờ, các giới quan sát cho rằng hiệp ước thương mại Mỹ Việt khó có thể được ký kết trước mùa Xuân năm 2001, là năm mà cuộc bầu cử TT ở Hoa kỳ đã hoàn tất và Đại Hội Đảng kỳ 9 của CS Việt nam cũng được tiến hành xong. Tình hình rõ rệt hơn và theo sự suy luận của nhiều người thì CSVN khó lòng có thể chần chờ hơn nưa trong việc bình thường hóa việc giao thương với Hoa kỳ để rồi có thể bước chân vào Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO). Trừ phi CSVN muốn tự cô lập mình...
Gửi ý kiến của bạn