Ủy ban Khoa Văn Giáo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngay từ thời đầu kháng chiến chống Pháp đã kết án cải lương là... văn hóa đồi trụy và đích thân xếp xòng văn hóa Tố Hữu ra lệnh cấm ca vọng cổ. Mặc dù vậy, nghệ thuật Cải lương đã tồn tại ở miền Nam trên dưới 90 năm và hiện nay cả Đảng CSVN cũng không thể tiếp tục cấm đoán.
Bài viết về trích từ báo trong nước sau đây hình như có ý nhắc nhở các quan chức đỏ từng cấm đoán cải lương phải thấu hiểu điều này: sự phát triển của nghệ thuật cải lương tại miền Nam Việt Nam là kết quả gắn bó giữa các nghệ sĩ và doanh gia tư sản, giữa thị hiếu quần chúng và... thị trường tự do.
Cái nôi của cải lương là Mỹ Tho. Cải lương được manh nha từ năm 1910, người được gắn liền tên tuổi với thời này là tài tử Nguyễn Tống Triều.
Năm 1912 tài tử Nguyễn Tống Triều đã đưa đờn ca cổ điển lên sân khấu tại Mỹ Tho. Ông đã là người đặt viên đá đầu tiên cho nền ca kịch cải lương ở miền Nam. Ngay từ thời kỳ này, Nguyễn Tống Triều đã vượt qua rất nhanh thời kỳ đờn ca tài tử.
Người ta kể rằng ngay từ năm 1911-1912 ông đã có ý định đưa đờn ca ra trước công chúng. Vậy là ông Triều bàn bạc với chủ nhà hàng “Minh Tân khách sạn” ở bến xe Mỹ Tho - Sài Gòn để ban tài tử của ông giúp vui cho khách đến nhà hàng.
Thấy cách làm của Minh Tân khách sạn gây được sự chú ý, chủ rạp Casino ở chợ Mỹ Tho kéo ban tài tử này về rạp diễn vào tối thứ bảy và thứ tư trên sân khấu. Từ chợ, bến xe Mỹ Tho tin tức bay nhanh lên Sài Gòn và nhiều tỉnh lân cận. Thế là có một cuộc chạy đua để bắt tay giữa các doanh gia Sài Gòn và các ban nhạc, các gánh hát cải lương ở Nam phần. Đó là cuộc bắt tay của chủ nhà hàng Cửu Long Giang sau chợ mới Sài Gòn và ban tài tử của ông Tư Triều (tức Nguyễn Tống Triều).
Sau đó, lần lượt các ban tài tử khác ra đời và chọn Sài Gòn, Chợ Lớn như một hướng đi để phát triển: các gánh, các ban tài tử của ông Phó Mười Hai ở Vĩnh Long, cơ Tư Sư lập ban Đồng bào Nam ở Mỹ Tho, Sĩ đồng ban ở Long Xuyên, Kỳ Lân ban ở Vũng Liêm - Vĩnh Long và Tân Phước Nam ở Sóc Trăng.
Chính cuộc giao lưu với Sài Gòn khiến cho ông Nam Tú ở Mỹ Tho nghĩ đến việc phải trang trí sân khấu khi đưa ca tài tử, ca ra bộ trên sân khấu. Ý nghĩ này được hình thành khi ông quan sát các rạp hát Tây ở Sài Gòn. Và cũng từ đó, ông mua sắm y phục diễn chu đáo hơn, hơn thế nữa còn cậy nhà văn Trương Duy Toản viết Tuồng để diễn mỗi đêm cả vở chứ không ca lẻ nữa.
Hầu hết các gánh cải lương lớn trước đây đều tuân thủ quy luật: gánh lập ở các tỉnh và đều nổi sau khi cập bến Sài Gòn. Và đến thời kỳ nổi đình nổi đám!
Đâu riêng gì các gánh hát tên tuổi, các tác giả, các danh ca cũng tuân thủ đường đi này. Chẳng hạn, ông Năm Nở đã được dân lục tỉnh biết đến từ năm 1929. Nhưng ông chỉ thực sự bước vào vị trí “cây đa cây đề” sau khi nghe lời gọi của chủ nhà hàng Phong Cảnh Khách Lầu. Ông lên Sài Gòn cùng ông Năm Châu lập gánh Năm Châu (năm 1940).
Điều đó cũng lại có ý nghĩa quan trọng đối với vị trí nghệ thuật của nghệ sĩ Út Trà Ôn. Nghệ sĩ Út Trà Ôn thực sự nổi đình nổi đám sau khi ca “Tôn Tẫn giả điên,” mở đầu lối ca buông nhịp rất lả lơi - và có cách diễn trong ca và lối hành văn nhịp nhàng, thư thả. Hãng đĩa ASIA dự báo được sức thu hút lớn của nghệ sĩ Út Trà Ôn khi ca “Tôn Tiễn giả điên” nên đã độc quyền thu đĩa bản này. Chính cách làm của ASIA với nghệ sĩ út Trà Ôn và “Tôn Tiễn giả điên” đã đưa sự cạnh tranh đầu tư lấy lời từ nghệ thuật của các hãng đĩa trở nên mạnh mẽ hơn từ cuối những năm 50 đầu 60.
Và như vậy, bộ môn nghệ thuật cải lương vô hình chung cũng ngày càng trở nên lớn mạnh. Gần một thế kỷ tồn tại, sân khấu cải lương đã khẳng định vị trí của nó trong đời sống văn hoá người Việt. Sự thăng trầm của một bộ môn nghệ thuật cũng là chuyện bình thường, song cần phải giữ gìn và phát triển nó để nó không mai một. Và sự giữ gìn ấy, cũng là giữ gìn một nét văn hoá của Sài Gòn 300 năm...
Bài viết về trích từ báo trong nước sau đây hình như có ý nhắc nhở các quan chức đỏ từng cấm đoán cải lương phải thấu hiểu điều này: sự phát triển của nghệ thuật cải lương tại miền Nam Việt Nam là kết quả gắn bó giữa các nghệ sĩ và doanh gia tư sản, giữa thị hiếu quần chúng và... thị trường tự do.
Cái nôi của cải lương là Mỹ Tho. Cải lương được manh nha từ năm 1910, người được gắn liền tên tuổi với thời này là tài tử Nguyễn Tống Triều.
Năm 1912 tài tử Nguyễn Tống Triều đã đưa đờn ca cổ điển lên sân khấu tại Mỹ Tho. Ông đã là người đặt viên đá đầu tiên cho nền ca kịch cải lương ở miền Nam. Ngay từ thời kỳ này, Nguyễn Tống Triều đã vượt qua rất nhanh thời kỳ đờn ca tài tử.
Người ta kể rằng ngay từ năm 1911-1912 ông đã có ý định đưa đờn ca ra trước công chúng. Vậy là ông Triều bàn bạc với chủ nhà hàng “Minh Tân khách sạn” ở bến xe Mỹ Tho - Sài Gòn để ban tài tử của ông giúp vui cho khách đến nhà hàng.
Thấy cách làm của Minh Tân khách sạn gây được sự chú ý, chủ rạp Casino ở chợ Mỹ Tho kéo ban tài tử này về rạp diễn vào tối thứ bảy và thứ tư trên sân khấu. Từ chợ, bến xe Mỹ Tho tin tức bay nhanh lên Sài Gòn và nhiều tỉnh lân cận. Thế là có một cuộc chạy đua để bắt tay giữa các doanh gia Sài Gòn và các ban nhạc, các gánh hát cải lương ở Nam phần. Đó là cuộc bắt tay của chủ nhà hàng Cửu Long Giang sau chợ mới Sài Gòn và ban tài tử của ông Tư Triều (tức Nguyễn Tống Triều).
Sau đó, lần lượt các ban tài tử khác ra đời và chọn Sài Gòn, Chợ Lớn như một hướng đi để phát triển: các gánh, các ban tài tử của ông Phó Mười Hai ở Vĩnh Long, cơ Tư Sư lập ban Đồng bào Nam ở Mỹ Tho, Sĩ đồng ban ở Long Xuyên, Kỳ Lân ban ở Vũng Liêm - Vĩnh Long và Tân Phước Nam ở Sóc Trăng.
Chính cuộc giao lưu với Sài Gòn khiến cho ông Nam Tú ở Mỹ Tho nghĩ đến việc phải trang trí sân khấu khi đưa ca tài tử, ca ra bộ trên sân khấu. Ý nghĩ này được hình thành khi ông quan sát các rạp hát Tây ở Sài Gòn. Và cũng từ đó, ông mua sắm y phục diễn chu đáo hơn, hơn thế nữa còn cậy nhà văn Trương Duy Toản viết Tuồng để diễn mỗi đêm cả vở chứ không ca lẻ nữa.
Hầu hết các gánh cải lương lớn trước đây đều tuân thủ quy luật: gánh lập ở các tỉnh và đều nổi sau khi cập bến Sài Gòn. Và đến thời kỳ nổi đình nổi đám!
Đâu riêng gì các gánh hát tên tuổi, các tác giả, các danh ca cũng tuân thủ đường đi này. Chẳng hạn, ông Năm Nở đã được dân lục tỉnh biết đến từ năm 1929. Nhưng ông chỉ thực sự bước vào vị trí “cây đa cây đề” sau khi nghe lời gọi của chủ nhà hàng Phong Cảnh Khách Lầu. Ông lên Sài Gòn cùng ông Năm Châu lập gánh Năm Châu (năm 1940).
Điều đó cũng lại có ý nghĩa quan trọng đối với vị trí nghệ thuật của nghệ sĩ Út Trà Ôn. Nghệ sĩ Út Trà Ôn thực sự nổi đình nổi đám sau khi ca “Tôn Tẫn giả điên,” mở đầu lối ca buông nhịp rất lả lơi - và có cách diễn trong ca và lối hành văn nhịp nhàng, thư thả. Hãng đĩa ASIA dự báo được sức thu hút lớn của nghệ sĩ Út Trà Ôn khi ca “Tôn Tiễn giả điên” nên đã độc quyền thu đĩa bản này. Chính cách làm của ASIA với nghệ sĩ út Trà Ôn và “Tôn Tiễn giả điên” đã đưa sự cạnh tranh đầu tư lấy lời từ nghệ thuật của các hãng đĩa trở nên mạnh mẽ hơn từ cuối những năm 50 đầu 60.
Và như vậy, bộ môn nghệ thuật cải lương vô hình chung cũng ngày càng trở nên lớn mạnh. Gần một thế kỷ tồn tại, sân khấu cải lương đã khẳng định vị trí của nó trong đời sống văn hoá người Việt. Sự thăng trầm của một bộ môn nghệ thuật cũng là chuyện bình thường, song cần phải giữ gìn và phát triển nó để nó không mai một. Và sự giữ gìn ấy, cũng là giữ gìn một nét văn hoá của Sài Gòn 300 năm...
Gửi ý kiến của bạn