Dân Mỹ đang ý thức được là trên thế giới có nhiều người chỉ nhìn thấy một niềm vui, và tỉnh táo thực hiện mơ ước đó, là giết Mỹ. Trong khi đó, họ quan tâm nhiều hơn đến một vấn đề có khi nằm ngoài khả năng ứng phó của chính quyền: sinh hoạt
kinh tế.
Trên cột báo này, chúng ta đã dự đoán là khi chiến cuộc Iraq kết thúc, lực lượng khủng bố al-Qaeda có một nhu cầu sinh tử, là chứng minh sự tồn tại của mình bằng một loạt hành vi khủng bố, trước khi tàn lụi dần. Lời tiên đoán đã được xác nhận với đợt khủng bố vừa nổ ra tại Saudi Arabia. Nhưng, sự kiện dù sao cũng đơn lẻ này vẫn che dấu một thực tế còn nguy kịch hơn mà có lẽ chỉ chính quyền George W. Bush mới thấy khi mở ra cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố.
Khi đợt khủng bố tại Saudi Arabia bùng nổ, người ta đoán ngay là có bàn tay al-Qaeda vì lối ra đòn liên tiếp, như một chỉ dấu căn cước. Sau đó, chính quyền Hoàng gia Saudi cho biết thêm là vụ khủng bố có thể do nhóm al-Qaeda thực hiện sau vụ bố ráp ngày mùng sáu tháng Năm vừa rồi và có 19 kẻ tình nghi đã thoát lưới. Nhóm này có thể là thủ phạm của vụ khủng bố vừa qua. Vấn đề này, cũng như thái độ của lãnh đạo Saudi, sẽ còn được sáng tỏ về sau, nhưng trước mắt, ta thấy nhiều dấu hiệu đáng ngại hơn. Đó là có những người Hồi giáo quá khích chỉ sống trong niềm tin là sẽ chết vinh quang khi diệt Mỹ. Điều này được xác nhận khi hung thủ của vụ khủng bố Bali tại Nam Dương vào tháng 10 năm ngóai xác nhận ngày hôm qua rằng mục tiêu của y là giết người Mỹ, dù kết quả đa số nạn nhân lại là dân Úc qua đảo thần tiên Bali để du lịch.
Al-Qaeda tấn công Hoa Kỳ vì nước Mỹ đã lập căn cứ tại Saudi Arabia năm 1991 để chấp hành một nghị quyết của Liên hiệp quốc. Sau khi chiến cuộc Iraq chấm dứt và hơn một tuần sau khi Mỹ loan báo là sẽ rút quân đội khỏi Saudi Arabia thì al-Qaeda vẫn tấn công vào những nơi có nhiều người Mỹ tụ tập sinh hoạt. Hoa Kỳ chấm dứt yểm trợ chế độ độc tài Suharto tại Nam Dương năm 1998, và nhiều người còn cho rằng Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF do Mỹ chi phối bên trong đã nhân vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á rút giây tiếp vận cho Suharto, khiến chế độ này sụp đổ. Sau độc tài, ta chưa thấy dân chủ mà chỉ thấy phong trào Hồi giáo chống Mỹ hồi sinh, với kết quả là vụ khủng bố Bali. Mỹ vào Saudi là có tội, rút khỏi Saudi vẫn là có tội. Mỹ yểm trợ chế độ quân phiệt Suharto là có tội, chấm dứt yểm trợ chế độ này cũng là có tội. Mỹ đề ra giải pháp Oslo mưu tìm hòa bình giữa Do Thái và Palestine là có tội, yểm trợ chính quyền Ariel Sharon sau khi phe Palestine phá vỡ hiệp ước Oslo cũng là có tội.
Mỹ có tội khi tổng thống George Bush vào Iraq theo một quyết định của Liên hiệp quốc để chấm dứt việc Iraq xâm lăng Kuweit. Mỹ cũng có tội khi tổng thống Bill Clinton tránh né đối đầu với Saddam Hussein và càng có tội khi tổng thống George W. Bush lật đổ chế độ Saddam. Ngày nay, khi đề nghị lộ trình vãn hồi hòa bình tại Trung Đông và đòi hỏi Do Thái chấp nhận cho dân Palestine được có một quốc gia riêng thì Mỹ cũng có tội. Ngày hôm qua, khi người ta khai quật được một mồ chôn tập thể tại Iraq có khoảng 3.000 nạn nhân bị chế độ Saddam Hussein thủ tiêu năm 1991 thì đó cũng là tội của Mỹ ...
Trong mọi trường hợp, ở ngần ấy nơi, tội đó dẫn đến việc khủng bố để giết Mỹ trả thù!
Hoa Kỳ đề cao kinh tế thị trường và đang là một đầu máy kinh tế cho toàn thế giới, sau khi phát huy ưu thế của toàn cầu hóa và vì vậy là một xứ đáng ghét. Tiến trình toàn cầu hóa đó đẻ ra một phó sản là tinh thần chống toàn cầu hóa, quy tụ rất nhiều thành phần, trong đó có những kẻ luyến tiếc chế độ cộng sản, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sự hoang dã của môi trường, những kẻ đề cao quyền sống của cá voi và quyền chậm tiến của các nước nghèo. Nhưng, chìm sâu bên dưới khuynh hướng chống toàn cầu hóa còn có một loài cực độc là tinh thần chống lại mọi sinh hoạt tự do của nhân loại, được kết tinh vào xã hội Hoa Kỳ, nền dân chủ kiểu Mỹ. Vì vậy, người Mỹ trở thành thủ phạm của mọi vấn đề trên địa cầu.
Thay vì biểu tình bày tỏ sự chống đối như đã thấy trong các hội nghị quốc tế, một số người Hồi giáo cực đoan lại lạnh lùng nghĩ đến giải pháp triệt để: giết Mỹ.
Chính quyền George W. Bush có nhìn ra sự thể éo le này nên không đánh giá thấp nguy cơ khủng bố. Khi người ta đi tới một ngã tư và gặp đèn vàng thì có người đạp thắng, có người nhấn tới. Chính quyền Mỹ hiện nay thuộc trường hợp thứ hai: Mỹ sẽ tiến tới và đối phó với khủng bố trên một mặt trận toàn cầu vì cho rằng dù có nhượng bộ hay thỏa hiệp trong khuôn khổ Liên hiệp quốc thì Hoa Kỳ vẫn bị tấn công. Quan điểm này là điều mà các cường quốc dân chủ hạng hai -như Pháp hay Đức- không hiểu được vì không là mục tiêu phải bị diệt. Người ta có thể đồng ý hay không với lý luận của chính quyền Bush, nhưng phải thấy rằng trong sự điên cuồng của các nhóm khủng bố vẫn có lối tính toán lạnh mình của quỷ dữ. Nếu chính quyền Bush có lạnh lùng đối phó với sự thể này thì cũng là điều có thể hiểu được.
Điều không thể hiểu được là sự yếu kém của chính quyền Bush khi đối phó với một vấn đề khác, cũng thuộc loại "ngoài ý muốn"... Đó là kinh tế.
Kinh tế Mỹ có giai đoạn tăng trưởng vượt bực là 10 năm liên tục từ 1991 đến 2000, lồng trong đó là bảy năm vàng son của thị trường chứng khoán, từ 1996 đến 2000, do sự hồ hởi của loài người về phép lạ của cuộc cách mạng tin học. Kết quả đó không do chánh sách của nhà nước - thời Bill Clinton - mà do thị trường đem lại, với hệ quả phụ là sự hồ hởi sảng của thị trường, thổi lên một trái bóng đầu tư căng phồng không cơ sở. Trái bóng đó bắt đầu xì từ tháng Ba năm 2000, khi ông Clinton còn cầm quyền, và nạn bể bóng đầu tư khởi đi từ đó đã dẫn tới vụ suy trầm kinh tế bắt đầu từ sáu tháng sau. Sau một nạn bể bóng đầu tư như vậy, người ta dễ gặp nguy cơ giảm phát - kinh tế tăng trưởng chậm, hàng họ vẫn ứ đọng dù đã hạ giá. Nguy cơ đó còn gia tăng vì nạn giảm phát tại Nhật và sự tham gia của Trung Quốc vào luồng trao đổi của địa cầu với một lực lượng lao động đông đảo, lương thấp, và với đồng Nhân dân tệ được tính quá thấp, có thể đến 50%, trước một đồng đô la tính quá cao. Vì vậy, trong giai đoạn phục hồi sau vụ bể bóng đầu tư, Mỹ còn gặp mối nguy giảm phát, với những rủi ro không thể kể hết về tình hình an ninh do nạn khủng bố gây ra.
Chính quyền George W. Bush được dân chúng đánh giá cao vì ý chí diệt trừ khủng bố và Mỹ càng bị tấn công thì dân Mỹ càng thấy thái độ cương quyết của chính quyền là đúng. Nhưng, trên bảng điểm chính trị thì ông Bush không được dân Mỹ ngợi khen nhiều về thành quả kinh tế. Họ không hiểu rằng công của đà tăng trưởng thời trước không thuộc Bill Clinton và tội của sự trì trệ ngày nay cũng chẳng là tội của George W. Bush.
Ông Bush có một năm nữa để chứng minh điều này, bên lề cuộc tranh luận về việc giảm thuế hay không và bao nhiêu là đủ. Ông có một ưu thế là (các) đối phương trong đảng Dân chủ chẳng có một giải thích nào thỏa đáng hơn, chưa nói đến một giải pháp đối phó với những vấn đề toàn cầu: nạn giết Mỹ làm vui và nạn giảm phát. Ưu thế đó có thể giúp ông tái đắc cử nhưng chưa đủ để đưa ông lên hàng ngũ các lãnh tụ lớn của thế giới.
NGUYỄN XUÂN NGHĨA
kinh tế.
Trên cột báo này, chúng ta đã dự đoán là khi chiến cuộc Iraq kết thúc, lực lượng khủng bố al-Qaeda có một nhu cầu sinh tử, là chứng minh sự tồn tại của mình bằng một loạt hành vi khủng bố, trước khi tàn lụi dần. Lời tiên đoán đã được xác nhận với đợt khủng bố vừa nổ ra tại Saudi Arabia. Nhưng, sự kiện dù sao cũng đơn lẻ này vẫn che dấu một thực tế còn nguy kịch hơn mà có lẽ chỉ chính quyền George W. Bush mới thấy khi mở ra cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố.
Khi đợt khủng bố tại Saudi Arabia bùng nổ, người ta đoán ngay là có bàn tay al-Qaeda vì lối ra đòn liên tiếp, như một chỉ dấu căn cước. Sau đó, chính quyền Hoàng gia Saudi cho biết thêm là vụ khủng bố có thể do nhóm al-Qaeda thực hiện sau vụ bố ráp ngày mùng sáu tháng Năm vừa rồi và có 19 kẻ tình nghi đã thoát lưới. Nhóm này có thể là thủ phạm của vụ khủng bố vừa qua. Vấn đề này, cũng như thái độ của lãnh đạo Saudi, sẽ còn được sáng tỏ về sau, nhưng trước mắt, ta thấy nhiều dấu hiệu đáng ngại hơn. Đó là có những người Hồi giáo quá khích chỉ sống trong niềm tin là sẽ chết vinh quang khi diệt Mỹ. Điều này được xác nhận khi hung thủ của vụ khủng bố Bali tại Nam Dương vào tháng 10 năm ngóai xác nhận ngày hôm qua rằng mục tiêu của y là giết người Mỹ, dù kết quả đa số nạn nhân lại là dân Úc qua đảo thần tiên Bali để du lịch.
Al-Qaeda tấn công Hoa Kỳ vì nước Mỹ đã lập căn cứ tại Saudi Arabia năm 1991 để chấp hành một nghị quyết của Liên hiệp quốc. Sau khi chiến cuộc Iraq chấm dứt và hơn một tuần sau khi Mỹ loan báo là sẽ rút quân đội khỏi Saudi Arabia thì al-Qaeda vẫn tấn công vào những nơi có nhiều người Mỹ tụ tập sinh hoạt. Hoa Kỳ chấm dứt yểm trợ chế độ độc tài Suharto tại Nam Dương năm 1998, và nhiều người còn cho rằng Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF do Mỹ chi phối bên trong đã nhân vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á rút giây tiếp vận cho Suharto, khiến chế độ này sụp đổ. Sau độc tài, ta chưa thấy dân chủ mà chỉ thấy phong trào Hồi giáo chống Mỹ hồi sinh, với kết quả là vụ khủng bố Bali. Mỹ vào Saudi là có tội, rút khỏi Saudi vẫn là có tội. Mỹ yểm trợ chế độ quân phiệt Suharto là có tội, chấm dứt yểm trợ chế độ này cũng là có tội. Mỹ đề ra giải pháp Oslo mưu tìm hòa bình giữa Do Thái và Palestine là có tội, yểm trợ chính quyền Ariel Sharon sau khi phe Palestine phá vỡ hiệp ước Oslo cũng là có tội.
Mỹ có tội khi tổng thống George Bush vào Iraq theo một quyết định của Liên hiệp quốc để chấm dứt việc Iraq xâm lăng Kuweit. Mỹ cũng có tội khi tổng thống Bill Clinton tránh né đối đầu với Saddam Hussein và càng có tội khi tổng thống George W. Bush lật đổ chế độ Saddam. Ngày nay, khi đề nghị lộ trình vãn hồi hòa bình tại Trung Đông và đòi hỏi Do Thái chấp nhận cho dân Palestine được có một quốc gia riêng thì Mỹ cũng có tội. Ngày hôm qua, khi người ta khai quật được một mồ chôn tập thể tại Iraq có khoảng 3.000 nạn nhân bị chế độ Saddam Hussein thủ tiêu năm 1991 thì đó cũng là tội của Mỹ ...
Trong mọi trường hợp, ở ngần ấy nơi, tội đó dẫn đến việc khủng bố để giết Mỹ trả thù!
Hoa Kỳ đề cao kinh tế thị trường và đang là một đầu máy kinh tế cho toàn thế giới, sau khi phát huy ưu thế của toàn cầu hóa và vì vậy là một xứ đáng ghét. Tiến trình toàn cầu hóa đó đẻ ra một phó sản là tinh thần chống toàn cầu hóa, quy tụ rất nhiều thành phần, trong đó có những kẻ luyến tiếc chế độ cộng sản, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sự hoang dã của môi trường, những kẻ đề cao quyền sống của cá voi và quyền chậm tiến của các nước nghèo. Nhưng, chìm sâu bên dưới khuynh hướng chống toàn cầu hóa còn có một loài cực độc là tinh thần chống lại mọi sinh hoạt tự do của nhân loại, được kết tinh vào xã hội Hoa Kỳ, nền dân chủ kiểu Mỹ. Vì vậy, người Mỹ trở thành thủ phạm của mọi vấn đề trên địa cầu.
Thay vì biểu tình bày tỏ sự chống đối như đã thấy trong các hội nghị quốc tế, một số người Hồi giáo cực đoan lại lạnh lùng nghĩ đến giải pháp triệt để: giết Mỹ.
Chính quyền George W. Bush có nhìn ra sự thể éo le này nên không đánh giá thấp nguy cơ khủng bố. Khi người ta đi tới một ngã tư và gặp đèn vàng thì có người đạp thắng, có người nhấn tới. Chính quyền Mỹ hiện nay thuộc trường hợp thứ hai: Mỹ sẽ tiến tới và đối phó với khủng bố trên một mặt trận toàn cầu vì cho rằng dù có nhượng bộ hay thỏa hiệp trong khuôn khổ Liên hiệp quốc thì Hoa Kỳ vẫn bị tấn công. Quan điểm này là điều mà các cường quốc dân chủ hạng hai -như Pháp hay Đức- không hiểu được vì không là mục tiêu phải bị diệt. Người ta có thể đồng ý hay không với lý luận của chính quyền Bush, nhưng phải thấy rằng trong sự điên cuồng của các nhóm khủng bố vẫn có lối tính toán lạnh mình của quỷ dữ. Nếu chính quyền Bush có lạnh lùng đối phó với sự thể này thì cũng là điều có thể hiểu được.
Điều không thể hiểu được là sự yếu kém của chính quyền Bush khi đối phó với một vấn đề khác, cũng thuộc loại "ngoài ý muốn"... Đó là kinh tế.
Kinh tế Mỹ có giai đoạn tăng trưởng vượt bực là 10 năm liên tục từ 1991 đến 2000, lồng trong đó là bảy năm vàng son của thị trường chứng khoán, từ 1996 đến 2000, do sự hồ hởi của loài người về phép lạ của cuộc cách mạng tin học. Kết quả đó không do chánh sách của nhà nước - thời Bill Clinton - mà do thị trường đem lại, với hệ quả phụ là sự hồ hởi sảng của thị trường, thổi lên một trái bóng đầu tư căng phồng không cơ sở. Trái bóng đó bắt đầu xì từ tháng Ba năm 2000, khi ông Clinton còn cầm quyền, và nạn bể bóng đầu tư khởi đi từ đó đã dẫn tới vụ suy trầm kinh tế bắt đầu từ sáu tháng sau. Sau một nạn bể bóng đầu tư như vậy, người ta dễ gặp nguy cơ giảm phát - kinh tế tăng trưởng chậm, hàng họ vẫn ứ đọng dù đã hạ giá. Nguy cơ đó còn gia tăng vì nạn giảm phát tại Nhật và sự tham gia của Trung Quốc vào luồng trao đổi của địa cầu với một lực lượng lao động đông đảo, lương thấp, và với đồng Nhân dân tệ được tính quá thấp, có thể đến 50%, trước một đồng đô la tính quá cao. Vì vậy, trong giai đoạn phục hồi sau vụ bể bóng đầu tư, Mỹ còn gặp mối nguy giảm phát, với những rủi ro không thể kể hết về tình hình an ninh do nạn khủng bố gây ra.
Chính quyền George W. Bush được dân chúng đánh giá cao vì ý chí diệt trừ khủng bố và Mỹ càng bị tấn công thì dân Mỹ càng thấy thái độ cương quyết của chính quyền là đúng. Nhưng, trên bảng điểm chính trị thì ông Bush không được dân Mỹ ngợi khen nhiều về thành quả kinh tế. Họ không hiểu rằng công của đà tăng trưởng thời trước không thuộc Bill Clinton và tội của sự trì trệ ngày nay cũng chẳng là tội của George W. Bush.
Ông Bush có một năm nữa để chứng minh điều này, bên lề cuộc tranh luận về việc giảm thuế hay không và bao nhiêu là đủ. Ông có một ưu thế là (các) đối phương trong đảng Dân chủ chẳng có một giải thích nào thỏa đáng hơn, chưa nói đến một giải pháp đối phó với những vấn đề toàn cầu: nạn giết Mỹ làm vui và nạn giảm phát. Ưu thế đó có thể giúp ông tái đắc cử nhưng chưa đủ để đưa ông lên hàng ngũ các lãnh tụ lớn của thế giới.
NGUYỄN XUÂN NGHĨA
Gửi ý kiến của bạn