CẤM NHẬP CẢNH HOA KỲ VÌ LÝ DO GÁNH NẶNG XÃ HỘI
Điều khoản 212(a)(4) của Luật Di Trú Hoa Kỳ quy định việc không cho nhập cảnh đối với những người nào có thể trở thành gánh nặng cho xã hội khi đương sự đến cư trú tại Hoa Kỳ. Nguyên tắc này không phải là mới mẽ, trái lại nó là một trong các điều khoản xưa nhất của luật di trú. Không những thế, khái niệm về gánh nặng xã hội vốn đã có trước khi ban hành luật di trú nữa.
Nhưng riêng đối với người Việt Nam chúng ta thì đây là một điều rất mới mẽ.
Tại sao vậy " Vì phần lớn, có thể nói là hầu hết, những người Việt Nam đến Hoa Kỳ trong thời kỳ đầu sau biến cố 1975 là những người tỵ nạn ( tỵ nạn Cọng sản ). Đó là những người di tản khỏi Việt Nam trong những ngày trước và sau 30 tháng 04-1975 và những thuyền nhân vượt biên trong những năm tiếp theo đó. Trong diện tỵ nạn thì không đặt vấn đề gánh nặng xã hội vì một khi đã cho tỵ nạn thì chính phủ cũng trợ giúp luôn người tỵ nạn ổn định cuộc sống tại quốc gia đã cưu mang họ.
Một khi cuộc sống đã ổn định, đã có công ăn việc làm, nhiều người đã trở thành công dân Hoa Kỳ, thì lớp người định cư tiên khởi này mới nghĩ đến việc đoàn tụ gia đình và tiến hành thủ tục bảo lãnh cho các thân nhân được sang Hoa Kỳ. Lúc này vấn đề gánh nặng xã hội được đặt ra, vì những người được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lớp sau này không thuộc diện tỵ nạn nữa mà thuộc diện di dân. Trách nhiệm cưu mang họ không thuộc về chính phủ mà chính yếu là thuộc về người đã đứng ra bảo lãnh họ. Do đó trước khi cho nhập cảnh, chính phủ cần xét xem người đứng bảo lãnh có đủ khả năng để cưu mang thân nhân của mình hay không.
Nếu người đứng bảo lãnh không đủ khả năng để cưu mang thì khi thân nhân gặp trường hợp bức thiết tất phải kêu cứu đến sự giúp đở của xã hội và đó là gánh nặng cho xã hội.
Căn cứ vào đâu để không cho nhập cãnh vì lý do đương sự có thể trở thành gánh nặng xã hội "
Thật ra Sở Di Trú và Bộ Ngoại Giao không ấn định những qui tắc nhất định và rỏ ràng để xét xem một đương đơn có thể trở thành gánh nặng xã hội hay không. Tuy nhiên để quyết định, giới chức xét đơn căn cứ trên một số yếu tố pháp lý như : tuổi tác, tình trạng sức khỏe, hoàn cảnh gia đình, tài sản, khả năng tài chánh, học vấn, ngành nghề chuyên môn của đương đơn.
Ngoài ra, Sở Di Trú và Bộ Ngoại Giao cũng dựa trên bảng hướng dẫn do Bộ Y tế và Xã Hội phổ biến về mức lợi tức tối thiểu hàng năm để ấn định tiêu chuẩn nghèo khó. Người nào có mức lợi tức hàng năm dưới tiêu chuẩn này thì bị xem như không đủ khả năng để cưu mang thêm những thân nhân khác nữa và nếu cho những thân nhân này nhập cảnh vào Hoa Kỳ thì họ có thể trở thành gánh nặng cho xã hội.
Kể từ năm 1996, những người xin chiếu khán di dân vào Hoa Kỳ, khi đến gặp giới chức phỏng vấn phải xuất trình giấy cam kết bảo trợ tài chánh (affidavit of support) do người đứng bảo lãnh thiết lập. Giấy bảo trợ tài chánh này được xem như tài liệu chứng minh là đương đơn sẽ không trở thành gánh nặng cho xã hội.
Giấy bảo trợ tài chánh rất cần thiết đối với các hồ sơ bảo lãnh di dân theo diện đoàn tụ gia đình và diện công nhân viên nếu người chủ hảng đứng bảo lãnh đồng thời cũng là thân nhân của người công nhân viên.
Giấy bảo trợ tài chánh, mẫu I-864, có hiệu lực pháp lý đối với người thiết lập giấy bảo trợ này. Nếu trong khoảng thời gian 5 năm đầu sau khi đến Hoa Kỳ mà người được bảo lãnh phải nhờ đến trợ cấp xã hội mới có thể sinh sống thì người đứng thiết lập giấy bảo trợ tài chánh có thể bị chính phủ áp dụng các biện pháp cưỡng hành để bồi hoàn lại các khoản trợ cấp.
Mặc dù đương đơn có xuất trình giấy bảo trợ tài chánh hợp lệ với mức lợi tức hàng năm đúng theo mức tối thiểu quy định, nhưng đơn xin chiếu khán vẩn có thể bị bác vì lý do gánh nặng xã hội, vì khi thấy mức lợi chỉ suýt soát với mức quy định, giới chức lãnh sự có thể đòi hỏi thêm người phụ bảo trợ.
Trong trường hợp đơn xin chiếu khán bị bác vì lý do liên hệ đến vấn đề bảo trợ tài chánh, hoặc giả giấy bảo trợ tài chánh thiết lập không đúng cách, hoặc giả tài liệu chứng minh lợi tức có nghi vấn thì đương sự được phép làm lại một giấy bảo trợ tài chánh khác.
PHẦN GIẢI ĐÁP THẮC MẮC:
Câu hỏi 1) Tôi đang bảo lãnh vợ của tôi . Tôi đã tốt nghiệp đại học năm ngoái và đang đi làm từ tháng Giêng năm nay với một lợi tức khá . Nhưng tôi không có lợi tức trong các năm 2000 và 1999. Liệu đây có phải là một trở ngại hay không"
Đáp: Nếu bạn đang có lợi tức cao và công việc làm ổn định thì vợ của bạn có nhiều triển vọng được chấp thuận .
Câu hỏi 2) Trước khi tôi về hưu, tôi đã bảo lãnh gia đình con gái của tôi . Tôi nghe nói là gia đình con tôi có thể sẽ bị từ chối nếu tôi đang lãnh trợ cấp cao niên. Điều này có đúng không"
Đáp: Nhiều hồ sơ bảo lãnh đã bị từ chối trước năm 1997 vì người đứng đơn lãnh trợ cấp SSI hay trợ cấp xã hội . Dựa vào mẫu đơn bảo lãnh tài chánh mới I-864, những hồ sơ loại này có thể được chấp thuận nếu có một người đồng bảo trợ hoặc phụ bảo trợ đáng tin cậy .
Câu hỏi 3) Tôi đang bảo lãnh vị hôn thê của tôi . Tôi đã lãnh tiền bảo hiểm phế tật nhưng đã trở lại làm việc được vài tháng nay . Việc này có trở ngại gì không" Tôi có cần một người phụ bảo trợ hay không"
Đáp: Nếu người bảo lãnh bị phế tật dài hạn thì hồ sơ có thể sẽ bị từ chối . Việc nhận trợ cấp bảo hiểm phế tật trong một thời gian ngắn thường không trở ngại, do đó không cần có một người phụ bảo trợ.
Tổng lãnh sự không đưa ra một điều lệ tổng quát về những hồ sơ bảo lãnh tài chánh cho diện vị hôn thê . Tùy thuộc vào từng hồ sơ và ý kiến cá nhân của mỗi tham tán lãnh sự . Có những lãnh sự từ chối những hồ sơ bảo lãnh vị hôn thê/hôn phu cần người phụ bảo trợ tài chánh.
Quý độc giả quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7PM, thứ Ba và thứ Sáu từ 6:00PM, sang Chủ Nhật từ 11:30AM, trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, 1110AM và 106.3FM. Hoặc quý vị liên lạc với một trong những văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888, Oakland-San Francisco: (510) 238-8830 , Sacramento 1-800-411-0495 hay qua email: info@rmiodp.com