[CĐNVTD/UC 8/8/03] Ban Chấp Hành CĐNVTD/UC kêu gọi đồng hương, nếu khi cần, hãy nhớ và hãy xử dụng quyền của mình vừa được ghi thành văn bản trên bản Hiệp Ước Sứ Quán mà Uùc và CSVN vừa ký kết ngày 29/7.
Nhân dịp này, BCH cũng khuyến khích số ít đồng hương hội đủ điều kiện nhưng chưa vào quốc tịch Úc hãy cứu xét việc nhập tịch, để thi hành bổn phận cũng như được hưởng quyền của công dân. Theo luật hiện hành thì nếu ai chỉ là thường trú nhân nhưng không có quốc tịch Uùc, thì chính quyền Uùc vẫn có quyền trục xuất về VN nếu họ bị toà Uùc kêu án tù trên 1 năm. Những người bị trục xuất gần đây thì bị án tù liên quan đến tội bạo động hoặc ma túy. Tuy nhiên, luật trục xuất này áp dụng cho nhiều loại tội, kể cả tội lái xe ẩu v.v.
Bản Hiệp Ước nói trên bao gồm 22 điều khoản liên quan đến mục đích, trách nhiệm và quyền lợi của sứ quán mỗi bên, các thủ tục làm giấy tờ thông hành, các thủ tục giải quyết khi máy bay hoặc tàu của nước này vào không phận hay hải phận của nước kia.
Riêng các điều khoản số 11-14 thì quan trọng đối với người mang quốc tịch Uùc khi vào VN, nếu khi ở VN bị bắt bớ, hoặc chẳng may qua đời, hay nếu có con em gặp trường hợp không may.
Những điều khoản 11-13 là do BCH CĐNVTD/UC yêu cầu để bảo vệ quyền lợi của đồng hương, qua Bản Đề Nghị gởi đến Ngoại Trưởng Uùc vào ngày 8 tháng 6 năm 2001, và qua một số cuộc thảo luận sau đó với Bộ Ngoại Giao Uùc.
Mục đích chính là để công an và nhân viên nhà nước CSVN không thể ức hiếp đồng hương, và để đồng hương dễ dàng dùng quyền tự do phát biểu của mình, cũng như chống lại và không hợp tác trước tệ trạng tham nhũng hối lộ của nhà nước CSVN, hoặc tệ trạng luật rừng của nhà nước này.
Theo Bộ Ngoại Giao, thì tuy cuộc thương thảo đã được bắt đầu từ rất lâu, từ năm 1988, và tiến triển rất chậm, nhưng BNG đã đẩy mạnh việc thương thảo sau khi CĐNVTD/UC đưa Bản Đề Nghị vào năm 2001. Ngoài ra, BNG cũng đã dùng nhiều chi tiết trong Bản Đề Nghị này.
Sau đây là các điểm chính về Hiệp Ước này:
A) Trong trường hợp CSVN bắt bớ hoặc truy tố công dân Uùc ra toà, điều khoản 11 có những chi tiết chính là:
Nếu bắt giam công dân Uùc thì trong vòng 3 ngày sau khi bắt giam, CSVN phải báo cho sứ quán Uùc biết về vụ bắt, và cho sứ quán biết công dân đang bị giam ở đâu, trừ khi chính đương sự yêu cầu đừng báo cho sứ quán (Xin đọc phần Chú Thích dưới cùng)
Trong khi đang bị giam giữ, nếu đương sự viết thư cho sứ quán, thì nhà nước CSVN phải chuyển thư đến sứ quán Uùc.
Sứ quán có quyền vào thăm và có quyền nói chuyện với công dân. Lần đầu là trong vòng 2 ngày sau khi được thông báo về vụ bắt bớ, và ít nhất là 1 lần mỗi tháng sau đó.
Sứ quán có quyền giữ tạm tiền hay các vật tùy thân của công dân, nếu điều này phù hợp với luật của CSVN
Nếu truy tố ra toà, thì CSVN phải thông báo cho sứ quán Uùc là tội danh là gì, và phải cung cấp thông dịch viên nếu cần. Sứ quán có 2 quyền như sau: a)Cho nhân viên vào tham dự phiên toà; b)Thu xếp cung cấp luật sư để đại diện cho công dân nếu được công dân yêu cầu (Ngay cả nếu khi sứ quán tin rằng công dân muốn yêu cầu nhưng chưa có khả năng hoặc phương tiện để mở lời yêu cầu, thì sứ quán vẫn có quyền cung cấp luật sư để tạm thời bảo vệ quyền lợi cho đến khi người đó có thể có luật sư riêng của mình).
B) Trong trường hợp công dân Uùc qua đời khi đang ở VN, có các điều khoản sau đây:
Điều 12 đòi CSVN phải báo cho sứ quán càng sớm càng hay về cái chết, và khi được sứ quán yêu cầu thì cung cấp chứng chỉ xác nhận nguyên nhân chết.
Điều 13: 1)Đòi CSVN phải báo cho sứ quán càng sớm càng hay nếu CSVN biết là công dân Uùc khi chết đi thì còn gia tài mà không có thừa kế ở VN, hoặc nếu CSVN biết rằng người được quyền thừa hưởng gia tài là một công dân Uùc khác; 2)Nhân viên sứ quán có quyền có mặt khi CSVN đang làm biên bản về tài sản của công dân Uùc; 3)Sứ quán có quyền có mặt trước toà của CSVN để đại diện cho công dân Uùc nào có quyền thừa hưởng gia tài; 4)Nếu công dân Uùc qua đời mà ở VN không có thân nhân hay đại diện, thì sứ quán có quyền tạm giữ tiền, giấy tờ và vật tùy thân để chuyển sau đó.
C) Nếu công dân là một trẻ em, hoặc là người lớn nhưng vì lý do gì mà thiếu khả năng tự chủ, thì điều khoản 14 cho sứ quán có quyền bảo vệ quyền và quyền lợi của công dân này, và chỉ định một người làm người đại diện cho công dân đó, cũng như có quyền giám sát việc làm của người đại diện này.
Hiện nay BCH có một bản sao của Hiệp Ước này, do Bộ Ngoại Giao cung cấp. Theo BNG thì trong vài tuần sắp tới, họ sẽ cho vào website ở điạ chỉ www.dfat.gov.au/treaties (bấm "Countries", rồi "Vietnam"), và khi đó quý đồng hương có thể tham khảo nguyên văn tài liệu dài 15 trang này.
(CHÚ THÍCH: Để tránh tình trạng bị nói oan là mình không muốn sứ quán dính dáng đến, thì BCH đề nghị quý đồng hương hãy lên tiếng yêu cầu sứ quán gặp và giúp đỡ. Nếu điều kiện cho phép, thì nên viết điều này xuống giấy biên bản hoặc giấy khai khi bị giam, hoặc tốt hơn hết thì viết thành thư. Nếu không rành tiếng anh, cứ viết tiếng Việt. Nội dung lá thư có thể có các điểm chính sau đây, tùy theo ý muốn của quý đồng hương:
"1)Tôi là công dân Uùc, tôi yêu cầu nhà nước thông báo càng sớm càng hay cho sứ quán Uùc là tôi vừa bị bắt giam vào ngày .., và cho họ biết tội danh là gì, và tôi đang bị giam ở đâu,
2)Tôi muốn liên lạc với sứ quán Uùc càng sớm càng hay,
3)Tôi yêu cầu nhà nước chuyển lá thư này, hoặc lời yêu cầu này, của tôi đến sứ quán,
4)Tôi cho phép và yêu cầu sứ quán đến thăm tôi,
5)Tôi cho phép và yêu cầu sứ quán cử luật sư đại diện cho tôi ở phiên toà, và cử nhân viên đến tham dự phiên toà, và
6)Tôi cho phép và yêu cầu sứ quán tạm giữ tiền và các vật tùy thân của tôi, chiếu theo luật của VN")
Nhân dịp này, BCH cũng khuyến khích số ít đồng hương hội đủ điều kiện nhưng chưa vào quốc tịch Úc hãy cứu xét việc nhập tịch, để thi hành bổn phận cũng như được hưởng quyền của công dân. Theo luật hiện hành thì nếu ai chỉ là thường trú nhân nhưng không có quốc tịch Uùc, thì chính quyền Uùc vẫn có quyền trục xuất về VN nếu họ bị toà Uùc kêu án tù trên 1 năm. Những người bị trục xuất gần đây thì bị án tù liên quan đến tội bạo động hoặc ma túy. Tuy nhiên, luật trục xuất này áp dụng cho nhiều loại tội, kể cả tội lái xe ẩu v.v.
Bản Hiệp Ước nói trên bao gồm 22 điều khoản liên quan đến mục đích, trách nhiệm và quyền lợi của sứ quán mỗi bên, các thủ tục làm giấy tờ thông hành, các thủ tục giải quyết khi máy bay hoặc tàu của nước này vào không phận hay hải phận của nước kia.
Riêng các điều khoản số 11-14 thì quan trọng đối với người mang quốc tịch Uùc khi vào VN, nếu khi ở VN bị bắt bớ, hoặc chẳng may qua đời, hay nếu có con em gặp trường hợp không may.
Những điều khoản 11-13 là do BCH CĐNVTD/UC yêu cầu để bảo vệ quyền lợi của đồng hương, qua Bản Đề Nghị gởi đến Ngoại Trưởng Uùc vào ngày 8 tháng 6 năm 2001, và qua một số cuộc thảo luận sau đó với Bộ Ngoại Giao Uùc.
Mục đích chính là để công an và nhân viên nhà nước CSVN không thể ức hiếp đồng hương, và để đồng hương dễ dàng dùng quyền tự do phát biểu của mình, cũng như chống lại và không hợp tác trước tệ trạng tham nhũng hối lộ của nhà nước CSVN, hoặc tệ trạng luật rừng của nhà nước này.
Theo Bộ Ngoại Giao, thì tuy cuộc thương thảo đã được bắt đầu từ rất lâu, từ năm 1988, và tiến triển rất chậm, nhưng BNG đã đẩy mạnh việc thương thảo sau khi CĐNVTD/UC đưa Bản Đề Nghị vào năm 2001. Ngoài ra, BNG cũng đã dùng nhiều chi tiết trong Bản Đề Nghị này.
Sau đây là các điểm chính về Hiệp Ước này:
A) Trong trường hợp CSVN bắt bớ hoặc truy tố công dân Uùc ra toà, điều khoản 11 có những chi tiết chính là:
Nếu bắt giam công dân Uùc thì trong vòng 3 ngày sau khi bắt giam, CSVN phải báo cho sứ quán Uùc biết về vụ bắt, và cho sứ quán biết công dân đang bị giam ở đâu, trừ khi chính đương sự yêu cầu đừng báo cho sứ quán (Xin đọc phần Chú Thích dưới cùng)
Trong khi đang bị giam giữ, nếu đương sự viết thư cho sứ quán, thì nhà nước CSVN phải chuyển thư đến sứ quán Uùc.
Sứ quán có quyền vào thăm và có quyền nói chuyện với công dân. Lần đầu là trong vòng 2 ngày sau khi được thông báo về vụ bắt bớ, và ít nhất là 1 lần mỗi tháng sau đó.
Sứ quán có quyền giữ tạm tiền hay các vật tùy thân của công dân, nếu điều này phù hợp với luật của CSVN
Nếu truy tố ra toà, thì CSVN phải thông báo cho sứ quán Uùc là tội danh là gì, và phải cung cấp thông dịch viên nếu cần. Sứ quán có 2 quyền như sau: a)Cho nhân viên vào tham dự phiên toà; b)Thu xếp cung cấp luật sư để đại diện cho công dân nếu được công dân yêu cầu (Ngay cả nếu khi sứ quán tin rằng công dân muốn yêu cầu nhưng chưa có khả năng hoặc phương tiện để mở lời yêu cầu, thì sứ quán vẫn có quyền cung cấp luật sư để tạm thời bảo vệ quyền lợi cho đến khi người đó có thể có luật sư riêng của mình).
B) Trong trường hợp công dân Uùc qua đời khi đang ở VN, có các điều khoản sau đây:
Điều 12 đòi CSVN phải báo cho sứ quán càng sớm càng hay về cái chết, và khi được sứ quán yêu cầu thì cung cấp chứng chỉ xác nhận nguyên nhân chết.
Điều 13: 1)Đòi CSVN phải báo cho sứ quán càng sớm càng hay nếu CSVN biết là công dân Uùc khi chết đi thì còn gia tài mà không có thừa kế ở VN, hoặc nếu CSVN biết rằng người được quyền thừa hưởng gia tài là một công dân Uùc khác; 2)Nhân viên sứ quán có quyền có mặt khi CSVN đang làm biên bản về tài sản của công dân Uùc; 3)Sứ quán có quyền có mặt trước toà của CSVN để đại diện cho công dân Uùc nào có quyền thừa hưởng gia tài; 4)Nếu công dân Uùc qua đời mà ở VN không có thân nhân hay đại diện, thì sứ quán có quyền tạm giữ tiền, giấy tờ và vật tùy thân để chuyển sau đó.
C) Nếu công dân là một trẻ em, hoặc là người lớn nhưng vì lý do gì mà thiếu khả năng tự chủ, thì điều khoản 14 cho sứ quán có quyền bảo vệ quyền và quyền lợi của công dân này, và chỉ định một người làm người đại diện cho công dân đó, cũng như có quyền giám sát việc làm của người đại diện này.
Hiện nay BCH có một bản sao của Hiệp Ước này, do Bộ Ngoại Giao cung cấp. Theo BNG thì trong vài tuần sắp tới, họ sẽ cho vào website ở điạ chỉ www.dfat.gov.au/treaties (bấm "Countries", rồi "Vietnam"), và khi đó quý đồng hương có thể tham khảo nguyên văn tài liệu dài 15 trang này.
(CHÚ THÍCH: Để tránh tình trạng bị nói oan là mình không muốn sứ quán dính dáng đến, thì BCH đề nghị quý đồng hương hãy lên tiếng yêu cầu sứ quán gặp và giúp đỡ. Nếu điều kiện cho phép, thì nên viết điều này xuống giấy biên bản hoặc giấy khai khi bị giam, hoặc tốt hơn hết thì viết thành thư. Nếu không rành tiếng anh, cứ viết tiếng Việt. Nội dung lá thư có thể có các điểm chính sau đây, tùy theo ý muốn của quý đồng hương:
"1)Tôi là công dân Uùc, tôi yêu cầu nhà nước thông báo càng sớm càng hay cho sứ quán Uùc là tôi vừa bị bắt giam vào ngày .., và cho họ biết tội danh là gì, và tôi đang bị giam ở đâu,
2)Tôi muốn liên lạc với sứ quán Uùc càng sớm càng hay,
3)Tôi yêu cầu nhà nước chuyển lá thư này, hoặc lời yêu cầu này, của tôi đến sứ quán,
4)Tôi cho phép và yêu cầu sứ quán đến thăm tôi,
5)Tôi cho phép và yêu cầu sứ quán cử luật sư đại diện cho tôi ở phiên toà, và cử nhân viên đến tham dự phiên toà, và
6)Tôi cho phép và yêu cầu sứ quán tạm giữ tiền và các vật tùy thân của tôi, chiếu theo luật của VN")
Gửi ý kiến của bạn