Trước khi theo dõi từng giai đoạn của cuộc bầu cử năm 2004, ta cần tìm hiểu tiếp các khuynh hướng dị biệt trong chính trường Mỹ.
Lần trước ("Phân ngôi tả hữu"), ta đã thấy diễn đàn chính trị Hoa Kỳ chia hai theo tiêu chuẩn "tự do" như thế nào. Cả hai cánh tả và hữu, Dân chủ và Cộng hòa, đều đề cao tự do, nhưng khác nhau về định nghĩa. Cánh hữu chủ trương bảo vệ các quyền "tự do thế tục" khỏi sự chi phối của chính quyền - chủ yếu là tự do kinh tế - trong khi đề cao đạo lý và tôn giáo và chống lại sự phóng túng luân lý họ thấy ở cánh tả. Ngược lại, cánh tả đòi bảo vệ mọi quyền "tự do tinh thần" của công dân - kể cả quyền tự do phá thai, tự do luyến ái giữa người đồng tính, tự do vô thần - trong khi đề cao việc chính quyền phải can thiệp vào đời sống quốc dân để tái lập công bằng xã hội. Nói cho vắn tắt, cánh hữu cho người dân loại quyền tự do không đem sang bên kia thế giới được và đề cao Thượng đế, kỷ cương luân lý trong xã hội. Ngược lại, cánh tả đòi hỏi quyền tự do về luân lý và tinh thần, nhưng sẵn sàng hạn chế quyền tự do kinh tế bằng sự can thiệp của nhà nước, nhân danh tự do (khỏi bị thiểu số giàu có khuynh đảo) và công bằng xã hội.
Vì khái niệm tự do thiêng liêng của xã hội Hoa Kỳ, cả hai đảng đều đề cao nguyên tắc chung, nhưng không áp đặt kỷ luật khắt khe như đa số chính đảng khác trên thế giới. Cũng vì vậy mà từ hai tiêu chuẩn về tự do, ta thấy ra nhiều dị biệt trong chính trường Mỹ, căn cứ trên từng lãnh vực hoặc vấn đề. Cử tri chú trọng tới loại vấn đề cụ thể này hơn là tới nhãn hiệu tả-hữu, Dân chủ hay Cộng hòa.
Chúng ta khởi sự tìm hiểu tiếp về những dị biệt trong chi tiết.
Dị biệt về lập trường kinh tế
Nói chung, người Mỹ tin rằng kinh tế tự do có ưu điểm hơn kinh tế kinh tế tập trung kế hoạch theo kiểu cộng sản. Trong chi tiết, cánh hữu thì đề cao kinh tế thị trường như có giá trị nhất và phe cực đoan còn tin rằng kinh tế thị trường có ưu điểm về luân lý vì công bằng hơn mọi hình thái kinh tế khác. Ngược lại, cánh tả coi kinh tế thị trường là ít tệ nhất, nhưng cần được kềm chế bởi một nhà nước tích cực. Vì vậy, trong khi Cộng hòa chủ trương giới hạn vai trò của nhà nước (đo lường ở tỷ trọng của ngân sách quốc gia trong tổng sản lượng hay số lượng luật lệ kiểm sóat) thì Dân chủ thường đòi chính quyền can thiệp vào xã hội dù phải tăng chi, tăng thuế và làm thêm luật. Vì vậy, đảng Dân chủ được lòng giới công chức, người nghèo, thành phần thiểu số (sắc tộc và phụ nữ) còn đảng Cộng hòa được lòng giới tiểu doanh thương và giới đầu tư muốn tránh cảnh sưu cao thuế nặng, luật lệ rườm rà.
Có thể nói gọn rằng cánh hữu chủ trương chính quyền nên "vô vi", ít can thiệp cho dân tự do làm ăn thì kinh tế sẽ phát triển và quốc dân cùng có lợi; cánh tả chủ trương "hữu vi", chính quyền phải can thiệp để tái lập công bằng xã hội. Về tinh thần đó, ta có một ẩn dụ dễ nhớ: đảng Cộng hòa ưu tiên phát triển kinh tế và chất hàng hóa lên chuyến xe thịnh vượng của quốc dân; đảng Dân chủ đề cao công bằng xã hội nên đem hàng hóa trên chuyến xe thịnh vượng đó ban phát cho người nghèo. Một sự hiểu lầm cần được minh định ngay: cả hai đảng đều theo tư bản chủ nghĩa và được các đại công ty yểm trợ về tài chánh gần bằng nhau, và trong khi các tài phiệt tên tuổi có thể ủng hộ đảng Dân chủ vì muốn có những luật lệ có lợi cho họ thì giới tiểu doanh lại ủng hộ đảng Cộng hòa vì muốn được tự do làm ăn.
Dị biệt về luân lý xã hội
Vì đề cao tự do tuyệt đối về tinh thần, cánh tả chủ trương một xã hội phóng khoáng về luân lý, trong đó quyền phá thai hay tự do luyến ái và cả sáng tạo phải được tôn trọng, thậm chí, nhà nước còn phải can thiệp để bảo vệ và phát huy quyền này. Đây là lý do khiến cánh tả được đa số trí thức hay văn nghệ sĩ ủng hộ và gây ảnh hưởng rất lớn qua hệ thống truyền thông. Cánh hữu thì đòi hỏi nhà nước phải vô vi, không lấy ngân sách liên bang tài trợ việc phá thai chẳng hạn, và phe "bảo thủ xã hội" trong cánh hữu còn đề cao sự tôn sùng Thượng đế và luân lý gia đình, dù là nhà nước có cần can thiệp để giới hạn sự phóng túng quá đáng của cánh tả. Việc học sinh vào trường có cần đọc kinh, hoặc việc đề cao Thượng đế trong các diễn văn chính thức (God bless America) mới thành đề tài tranh luận là vì dị biệt đó. Cánh hữu quý trọng đời sống, kêu gọi chống phá thai, chống tự do luyến ái giữa người đồng tính. Chống ở đây có nghĩa là không nên, và không nên cổ võ, chứ không phải là một sự cấm đoán bằng luật lệ hay trừng phạt vì dù sao Hoa Kỳ vẫn là một xứ tự do nhất. Và phe tự do tuyệt đối trong cánh hữu (Libertarian) còn cho rằng chống đoán những điều đó cũng là vi phạm tự do công dân.
Dị biệt về quốc tế
Về đối ngoại, cả hai cánh cũng có một số dị biệt xuất phát từ triết lý căn bản. Vì chủ trương bảo vệ tự do, cả hai cánh đều có lập trường chống cộng, nhưng tiến hành khác nhau. Từ căn bản "vô vi", cánh hữu muốn hạn chế can thiệp nếu không vì quyền lợi chiến lược (và bên trong có phe cực đoan tới độ chủ trương tự cô lập khỏi chuyện thế giới) nhưng lại đề cao hợp tác kinh tế, kể cả với các xứ cộng sản vì tin kinh tế thị trường sẽ làm chế độ độc tài biến thể. Vì đặc tính "hữu vi", cánh tả có tinh thần hữu vi nên ưa can thiệp vào chuyện thế giới, tới các trường hợp xâm phạm dân chủ và nhân quyền, ô nhiễm môi sinh và dễ lấy quyết định gây chiến hơn cánh hữu.
Vì dị biệt phức tạp này, trong nhiều vấn đề quốc tế ta thấy nội bộ hai đảng Dân chủ và Cộng hòa cũng có phân hóa. Thí dụ như phe cực hữu vi của Dân chủ không đồng ý với tự do ngoại thương và đòi bảo vệ kỹ nghệ và công nhân nội địa (Nghị sĩ Ernest Hollings của South Carolina và Dân biểu Dick Gephardt của Missouri) nên đồng ý với chủ trương bảo hộ mậu dịch của phe cực hữu và tự cô lập bên kia (Pat Buchanan hay Ross Perrot). Phe tự do kinh tế của đảng Cộng hòa chủ trương hợp tác kinh tế với Bắc Kinh trong khi phe chống cộng trong đảng lại đòi bảo vệ Đài Loan. Đối với Việt Nam, cánh tả trước đây (1960-1968) ủng hộ việc tham chiến sau đảo ngược thành phản chiến và nay biện minh cho lập trường đó bằng thái độ thân thiện với Hà Nội hơn là đảng Cộng hòa. Nhưng trong đảng Cộng hòa, nếu có phe chống cộng mạnh thì cũng có người chủ trương hợp tác kinh tế để chuyển hóa Việt Nam và trong đảng Dân chủ cũng có người triệt để tố giác việc Hà Nội vi phạm nhân quyền.
Lãnh đạo trong thế trung dung
Theo các cuộc thăm dò mới nhất thì có chừng 42% dân số tự xưng theo đảng Dân chủ, chừng 41% theo đảng Cộng hòa và ở giữa là một thiểu số bất định. Xã hội Mỹ vì vậy được phân đôi khá đều nhưng, sau các cuộc tranh cử, đảng nào cũng đều tiến về thế trung dung ở giữa thì mới có được đa số. Vì vậy, trong thời tranh cử ta thấy những dị biệt được khuếch đại tưởng như đôi bên là kẻ thù, chứ sau bầu cử thì Hành pháp lẫn Lập pháp và xuống tới các cơ chế ở dưới đều tìm ra sự thỏa hiệp và có lẽ đó là điều cử tri mong muốn.
Nguyễn Xuân Nghĩa
Lần trước ("Phân ngôi tả hữu"), ta đã thấy diễn đàn chính trị Hoa Kỳ chia hai theo tiêu chuẩn "tự do" như thế nào. Cả hai cánh tả và hữu, Dân chủ và Cộng hòa, đều đề cao tự do, nhưng khác nhau về định nghĩa. Cánh hữu chủ trương bảo vệ các quyền "tự do thế tục" khỏi sự chi phối của chính quyền - chủ yếu là tự do kinh tế - trong khi đề cao đạo lý và tôn giáo và chống lại sự phóng túng luân lý họ thấy ở cánh tả. Ngược lại, cánh tả đòi bảo vệ mọi quyền "tự do tinh thần" của công dân - kể cả quyền tự do phá thai, tự do luyến ái giữa người đồng tính, tự do vô thần - trong khi đề cao việc chính quyền phải can thiệp vào đời sống quốc dân để tái lập công bằng xã hội. Nói cho vắn tắt, cánh hữu cho người dân loại quyền tự do không đem sang bên kia thế giới được và đề cao Thượng đế, kỷ cương luân lý trong xã hội. Ngược lại, cánh tả đòi hỏi quyền tự do về luân lý và tinh thần, nhưng sẵn sàng hạn chế quyền tự do kinh tế bằng sự can thiệp của nhà nước, nhân danh tự do (khỏi bị thiểu số giàu có khuynh đảo) và công bằng xã hội.
Vì khái niệm tự do thiêng liêng của xã hội Hoa Kỳ, cả hai đảng đều đề cao nguyên tắc chung, nhưng không áp đặt kỷ luật khắt khe như đa số chính đảng khác trên thế giới. Cũng vì vậy mà từ hai tiêu chuẩn về tự do, ta thấy ra nhiều dị biệt trong chính trường Mỹ, căn cứ trên từng lãnh vực hoặc vấn đề. Cử tri chú trọng tới loại vấn đề cụ thể này hơn là tới nhãn hiệu tả-hữu, Dân chủ hay Cộng hòa.
Chúng ta khởi sự tìm hiểu tiếp về những dị biệt trong chi tiết.
Dị biệt về lập trường kinh tế
Nói chung, người Mỹ tin rằng kinh tế tự do có ưu điểm hơn kinh tế kinh tế tập trung kế hoạch theo kiểu cộng sản. Trong chi tiết, cánh hữu thì đề cao kinh tế thị trường như có giá trị nhất và phe cực đoan còn tin rằng kinh tế thị trường có ưu điểm về luân lý vì công bằng hơn mọi hình thái kinh tế khác. Ngược lại, cánh tả coi kinh tế thị trường là ít tệ nhất, nhưng cần được kềm chế bởi một nhà nước tích cực. Vì vậy, trong khi Cộng hòa chủ trương giới hạn vai trò của nhà nước (đo lường ở tỷ trọng của ngân sách quốc gia trong tổng sản lượng hay số lượng luật lệ kiểm sóat) thì Dân chủ thường đòi chính quyền can thiệp vào xã hội dù phải tăng chi, tăng thuế và làm thêm luật. Vì vậy, đảng Dân chủ được lòng giới công chức, người nghèo, thành phần thiểu số (sắc tộc và phụ nữ) còn đảng Cộng hòa được lòng giới tiểu doanh thương và giới đầu tư muốn tránh cảnh sưu cao thuế nặng, luật lệ rườm rà.
Có thể nói gọn rằng cánh hữu chủ trương chính quyền nên "vô vi", ít can thiệp cho dân tự do làm ăn thì kinh tế sẽ phát triển và quốc dân cùng có lợi; cánh tả chủ trương "hữu vi", chính quyền phải can thiệp để tái lập công bằng xã hội. Về tinh thần đó, ta có một ẩn dụ dễ nhớ: đảng Cộng hòa ưu tiên phát triển kinh tế và chất hàng hóa lên chuyến xe thịnh vượng của quốc dân; đảng Dân chủ đề cao công bằng xã hội nên đem hàng hóa trên chuyến xe thịnh vượng đó ban phát cho người nghèo. Một sự hiểu lầm cần được minh định ngay: cả hai đảng đều theo tư bản chủ nghĩa và được các đại công ty yểm trợ về tài chánh gần bằng nhau, và trong khi các tài phiệt tên tuổi có thể ủng hộ đảng Dân chủ vì muốn có những luật lệ có lợi cho họ thì giới tiểu doanh lại ủng hộ đảng Cộng hòa vì muốn được tự do làm ăn.
Dị biệt về luân lý xã hội
Vì đề cao tự do tuyệt đối về tinh thần, cánh tả chủ trương một xã hội phóng khoáng về luân lý, trong đó quyền phá thai hay tự do luyến ái và cả sáng tạo phải được tôn trọng, thậm chí, nhà nước còn phải can thiệp để bảo vệ và phát huy quyền này. Đây là lý do khiến cánh tả được đa số trí thức hay văn nghệ sĩ ủng hộ và gây ảnh hưởng rất lớn qua hệ thống truyền thông. Cánh hữu thì đòi hỏi nhà nước phải vô vi, không lấy ngân sách liên bang tài trợ việc phá thai chẳng hạn, và phe "bảo thủ xã hội" trong cánh hữu còn đề cao sự tôn sùng Thượng đế và luân lý gia đình, dù là nhà nước có cần can thiệp để giới hạn sự phóng túng quá đáng của cánh tả. Việc học sinh vào trường có cần đọc kinh, hoặc việc đề cao Thượng đế trong các diễn văn chính thức (God bless America) mới thành đề tài tranh luận là vì dị biệt đó. Cánh hữu quý trọng đời sống, kêu gọi chống phá thai, chống tự do luyến ái giữa người đồng tính. Chống ở đây có nghĩa là không nên, và không nên cổ võ, chứ không phải là một sự cấm đoán bằng luật lệ hay trừng phạt vì dù sao Hoa Kỳ vẫn là một xứ tự do nhất. Và phe tự do tuyệt đối trong cánh hữu (Libertarian) còn cho rằng chống đoán những điều đó cũng là vi phạm tự do công dân.
Dị biệt về quốc tế
Về đối ngoại, cả hai cánh cũng có một số dị biệt xuất phát từ triết lý căn bản. Vì chủ trương bảo vệ tự do, cả hai cánh đều có lập trường chống cộng, nhưng tiến hành khác nhau. Từ căn bản "vô vi", cánh hữu muốn hạn chế can thiệp nếu không vì quyền lợi chiến lược (và bên trong có phe cực đoan tới độ chủ trương tự cô lập khỏi chuyện thế giới) nhưng lại đề cao hợp tác kinh tế, kể cả với các xứ cộng sản vì tin kinh tế thị trường sẽ làm chế độ độc tài biến thể. Vì đặc tính "hữu vi", cánh tả có tinh thần hữu vi nên ưa can thiệp vào chuyện thế giới, tới các trường hợp xâm phạm dân chủ và nhân quyền, ô nhiễm môi sinh và dễ lấy quyết định gây chiến hơn cánh hữu.
Vì dị biệt phức tạp này, trong nhiều vấn đề quốc tế ta thấy nội bộ hai đảng Dân chủ và Cộng hòa cũng có phân hóa. Thí dụ như phe cực hữu vi của Dân chủ không đồng ý với tự do ngoại thương và đòi bảo vệ kỹ nghệ và công nhân nội địa (Nghị sĩ Ernest Hollings của South Carolina và Dân biểu Dick Gephardt của Missouri) nên đồng ý với chủ trương bảo hộ mậu dịch của phe cực hữu và tự cô lập bên kia (Pat Buchanan hay Ross Perrot). Phe tự do kinh tế của đảng Cộng hòa chủ trương hợp tác kinh tế với Bắc Kinh trong khi phe chống cộng trong đảng lại đòi bảo vệ Đài Loan. Đối với Việt Nam, cánh tả trước đây (1960-1968) ủng hộ việc tham chiến sau đảo ngược thành phản chiến và nay biện minh cho lập trường đó bằng thái độ thân thiện với Hà Nội hơn là đảng Cộng hòa. Nhưng trong đảng Cộng hòa, nếu có phe chống cộng mạnh thì cũng có người chủ trương hợp tác kinh tế để chuyển hóa Việt Nam và trong đảng Dân chủ cũng có người triệt để tố giác việc Hà Nội vi phạm nhân quyền.
Lãnh đạo trong thế trung dung
Theo các cuộc thăm dò mới nhất thì có chừng 42% dân số tự xưng theo đảng Dân chủ, chừng 41% theo đảng Cộng hòa và ở giữa là một thiểu số bất định. Xã hội Mỹ vì vậy được phân đôi khá đều nhưng, sau các cuộc tranh cử, đảng nào cũng đều tiến về thế trung dung ở giữa thì mới có được đa số. Vì vậy, trong thời tranh cử ta thấy những dị biệt được khuếch đại tưởng như đôi bên là kẻ thù, chứ sau bầu cử thì Hành pháp lẫn Lập pháp và xuống tới các cơ chế ở dưới đều tìm ra sự thỏa hiệp và có lẽ đó là điều cử tri mong muốn.
Nguyễn Xuân Nghĩa
Gửi ý kiến của bạn